VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Số liệu thống kê

Tình hình kinh tế- xã hội mười tháng năm 2011

04/11/2011 - 255 Lượt xem

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào thu hoạch lúa mùa tại các địa phương phía Bắc, thu hoạch lúa hè thu trên cả nước và gieo cấy lúa mùa tại các địa phương phía Nam. Tính đến trung tuần tháng 10/2011, các địa phương phía Bắc đã thu hoạch được 434,5 nghìn ha lúa mùa, chiếm 35% diện tích gieo cấy và bằng 48,7% cùng kỳ năm 2010, chủ yếu do thời vụ gieo cấy muộn hơn năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng đạt 188,1 nghìn ha, chiếm 32,5% diện tích gieo cấy và bằng 45,3%.   

Đến trung tuần tháng Mười, các địa phương phía Nam mới gieo cấy được 497,8 nghìn ha lúa mùa, bằng 69,4% cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân do mưa lũ kéo dài nên một phần diện tích lúa hè thu chưa được thu hoạch và diện tích đất vùng trũng có nguy cơ bị ngập úng được chuyển sang gieo trồng vụ đông xuân sớm và các loại cây trồng khác.

Cùng với việc gieo cấy và thu hoạch lúa mùa, đến giữa tháng Mười, cả nước đã thu hoạch được 2145,4 nghìn ha lúa hè thu, chiếm 81,3% diện tích xuống giống, trong đó các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1945,7 nghìn ha, bằng 86% diện tích xuống giống. Một số tỉnh, thành phố có tiến độ thu hoạch nhanh là: Cần Thơ đạt 96% diện tích gieo cấy; Kiên Giang 95%; Đồng Tháp 92%; Vĩnh Long 88%.

Tiến độ gieo trồng một số cây vụ đông năm nay nhìn chung chậm hơn so với cùng kỳ năm trước, một mặt do nhiều diện tích lúa mùa ở các địa phương phía Bắc chậm được thu hoạch nên chưa có đất gieo trồng, mặt khác do ảnh hưởng của thời tiết có mưa nhiều. Tính đến 15/10, cả nước gieo trồng được 124,2 nghìn ha ngô, bằng 80,2% cùng kỳ năm trước; 15,6 nghìn ha khoai lang, bằng 50,8%; 25,7 nghìn ha đậu tương, bằng 30,7%; 59,7 nghìn ha rau đậu, bằng 80,6%.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển theo hướng ổn định do dịch bệnh về cơ bản đã được khống chế. Ước tính đàn trâu, bò xấp xỉ cùng kỳ năm trước, đàn gia cầm tăng 7-8%. Riêng đàn lợn giảm 2-3% so với cùng kỳ năm trước do giá thịt lợn trên thị trường giảm, trong khi các chi phí đầu vào vẫn ở mức cao gây ảnh hưởng tới tâm lý người chăn nuôi. Tính đến ngày 23/10/2011, dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở các tỉnh là: Dịch lở mồm long móng ở Nghệ An; dịch cúm gia cầm ở Quảng Ngãi; dịch tai xanh trên lợn ở Quảng Nam, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang và Sóc Trăng.

Mưa, lũ lớn xảy ra liên tiếp trong tháng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt tại các tỉnh: Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Bình Thuận, Lâm Đồng, An Giang, Đồng Tháp và Kiên Giang. Theo ước tính ban đầu, lũ lớn đã làm gần 42 nghìn ha lúa và rau màu bị ngập úng, trong đó gần 20 nghìn ha bị mất trắng. Riêng vùng trọng điểm lúa đồng bằng sông Cửu Long có 15 nghìn ha lúa và rau màu bị ngập (Đồng Tháp trên 2 nghìn ha; An Giang hơn 5 nghìn ha), trong đó hơn 8 nghìn ha mất trắng.

Lâm nghiệp

Thời tiết trong tháng có mưa trên diện rộng tạo điều kiện cho cây lâm nghiệp mới trồng sinh trưởng và phát triển tốt. Đến nay, các địa phương phía Bắc đã cơ bản hoàn thành công tác trồng rừng năm 2011, nhưng tại khu vực miền Trung và Nam Bộ, mưa lớn gây ngập lụt làm ảnh hưởng đến tiến độ trồng rừng chính vụ tại các địa phương trong vùng.

Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng Mười ước tính đạt 5,5 nghìn ha, bằng 22% cùng kỳ năm trước; cây lâm nghiệp trồng phân tán 6,8 triệu cây, tăng 0,7%; sản lượng gỗ khai thác đạt 432 nghìn m3, tăng 6,4%; sản lượng củi khai thác đạt 2,6 triệu ste, tăng 0,8%. Tính chung mười tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước đạt 157 nghìn ha, bằng 83,1% cùng kỳ năm trước; cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 170,5 triệu cây, tăng 0,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 3530 nghìn m3, tăng 12,2%; sản lượng củi khai thác đạt 24,3 triệu ste, tăng 2,1%.

Thời tiết đang vào mùa mưa nên hiện tượng cháy rừng giảm so với các tháng trước. Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng khoảng 20 ha. Tính chung mười tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 2017 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy là 994 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 1023 ha.

Thuỷ sản

Sản lượng thuỷ sản tháng Mười ước tính đạt 467,2 nghìn tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 342 nghìn tấn, tăng 4,3%; tôm đạt 70 nghìn tấn, tăng 4,9%.

Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tháng 10/2011 ước tính đạt 249,5 nghìn tấn, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 187 nghìn tấn, tăng 3,3%; tôm đạt 47 nghìn tấn tăng 4,4%. Sản xuất cá tra tiếp tục phát triển theo quy mô lớn, các địa phương đang đẩy mạnh việc triển khai và mở rộng diện tích nuôi theo các tiêu chuẩn Thực hành sản xuất tốt Global GAP, An toàn thực phẩm SQF... nhằm hướng đến tạo nguồn hàng đảm bảo an toàn, vệ sinh và chất lượng phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Nuôi tôm sú gặp khó khăn do mưa nhiều làm chất lượng nguồn nước bị thay đổi, cùng với mầm bệnh xuất hiện trước đó nhưng chưa được xử lý triệt để đã làm tôm bị chết nhiều ở một số địa phương, đặc biệt tại các tỉnh: Sóc Trăng, Bạc Liêu và Bến Tre. Tuy nhiên, trên phần diện tích nuôi thân thiện với môi trường như nuôi kết hợp với cá, lúa, hoặc nuôi tỉa thưa thả bù tiếp tục cho sản lượng thu hoạch khá và ổn định, trong đó một số địa phương có sản lượng tôm tăng cao là: Cà Mau 9 nghìn tấn, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước; Trà Vinh 8 nghìn tấn, tăng 12,4%; Kiên Giang 1,5 nghìn tấn, tăng 40%.

Sản lượng thuỷ sản khai thác tháng Mười ước tính đạt 217,7 nghìn tấn, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng khai thác biển đạt 198 nghìn tấn, tăng 5,3%. Mặc dù thời tiết có bão nhưng không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động khai thác thủy sản trên biển. Tại khu vực biển miền Trung, các loại cá nam, cá nục và cá cơm đang vào vụ nên ngư dân tranh thủ các điều kiện thuận lợi, tích cực ra khơi đánh bắt.

Tính chung mười tháng năm 2011, sản lượng thuỷ sản ước tính đạt 4549 nghìn tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm sản lượng nuôi trồng đạt 2413 nghìn tấn, tăng 5,5%; sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 2136 nghìn tấn, tăng 2,2% (khai thác biển đạt 1975 nghìn tấn, tăng 2,3%).

Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10/2011 tăng 5,2% so với tháng trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số sản xuất công nghiệp mười tháng năm nay tăng 7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Công nghiệp khai thác mỏ giảm 0,7%; công nghiệp chế biến tăng 10,2%; sản xuất, phân phối điện, ga, nước tăng 9,4%.

Một số ngành công nghiệp chủ yếu có chỉ số sản xuất mười tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất đồ gốm, sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ dùng trong xây dựng) tăng 86%; sản xuất đường tăng 42,4%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 19,9%; xay xát, sản xuất bột thô tăng 19,5%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 15,4%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) tăng 15,1%; sản xuất bia; sản xuất sợi và dệt vải tăng 14,8%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 14,1%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 13,9%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng khá là: Sản xuất thức ăn gia súc tăng 10,6%; sản xuất giày dép tăng 10,2%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,7%; chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 9,4%; sản xuất thuốc lá tăng 9,2%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất xi măng tăng 8,8%; sản xuất giấy nhăn và bao bì tăng 6,6%; sản xuất khai thác, lọc và phân phối nước tăng 6,5%; sản xuất đồ uống không cồn tăng 2,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 1,2%; khai thác dầu thô và khí tự nhiên giảm 1,7%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 3,1%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 20,9%; đóng và sửa chữa tàu giảm 22%.

Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chín tháng năm 2011 tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước. Các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất đồ gốm sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ xây dựng) tăng 76,4%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 50,8%; sản xuất đường tăng 39,9%; sản xuất gạch, ngói và gốm, sứ xây dựng không chịu lửa tăng 36,9%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 18%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng chậm hoặc giảm là: Sản xuất thức ăn gia súc tăng 9,2%; sản xuất giấy nhăn và bao bì tăng 8,8%; sản xuất sợi và dệt vải tăng 8,8%; sản xuất đồ uống không cồn tăng 8,2%; sản xuất giày dép tăng 7,4%; sản xuất bia tăng 6,7%; sản xuất xi măng tăng 5,1%; sản xuất sắt, thép tăng 4,5%; sản xuất bột giấy, giấy và bìa tăng 0,7%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 9,9%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 14,8%.

Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/10/2011 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 21,1% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó, các ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện tăng 88%; sản xuất xi măng, vôi, vữa tăng 84,4%; sản xuất bột giấy, giấy và bìa tăng 82,6%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 77,8%; sản xuất bia và mạch nha tăng 50,7%; sản xuất giày dép tăng 49,9%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 49,5%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 42%. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm mạnh là: Sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 23%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 22,9%; sản xuất xe có động cơ giảm 12,9%.

Theo kết quả điều tra lao động của 4273 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, chỉ số sử dụng lao động tháng 10/2011 ước tính tăng 0,9% so với tháng trước; số lao động tháng Mười giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 4,1%; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 1,6% và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 0,1%. Trong ba ngành công nghiệp cấp I, lao động ngành khai thác mỏ tháng Mười tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước; lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,5%; lao động ngành sản xuất, phân phối điện, ga và nước giảm 8,8%.

Đầu tư 

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười ước tính đạt 19,8 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương 3,7 nghìn tỷ đồng; vốn địa phương 16,1 nghìn tỷ đồng. Tính chung mười tháng năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 149,7 nghìn tỷ đồng, bằng 74,6% kế hoạch năm và tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2010, gồm có:

- Vốn trung ương quản lý đạt 34,2 nghìn tỷ đồng, bằng 81,8% kế hoạch năm và tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là 3379 tỷ đồng, bằng 92% và tăng 10,8%; Bộ Công Thương 3202 tỷ đồng, bằng 78,5% và tăng 8,1%; Bộ Y tế 789 tỷ đồng, bằng 87,8% và tăng 3,6%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 788 tỷ đồng, bằng 87,7% và tăng 3,4%; Bộ Xây dựng 604 tỷ đồng, bằng 61,6% và tăng 0,7%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 529 tỷ đồng, bằng 94,9% và tăng 3,1%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 115,5 nghìn tỷ đồng, bằng 72,6% kế hoạch năm và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2010. Một số địa phương có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn là: Hà Nội đạt 14081 tỷ đồng, bằng 67,3% kế hoạch năm và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2010; thành phố Hồ Chí Minh 13084 tỷ đồng, bằng 71,6% và tăng 9,2%; Đà Nẵng 6752 tỷ đồng, bằng 117,8% và tăng 12,8%; Quảng Ninh 3850 tỷ đồng, bằng 77,2% và giảm 1,8%; Thanh Hóa 3799 tỷ đồng, bằng 106,9% và tăng 11,6%; Bà Rịa-Vũng Tàu 2401 tỷ đồng, bằng 71,3% và tăng 2,1%.

Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/10/2011 đạt 11273,9 triệu USD, bằng 78,2% cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Vốn đăng ký 8876,2 triệu USD của 861 dự án được cấp phép mới (giảm 29,9% về vốn và giảm 19,3% về số dự án so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung 2397,7 triệu USD của 264 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện mười tháng năm 2011 ước tính đạt 9,1 tỷ USD, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2010.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mười tháng năm nay tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 5631,1 triệu USD, chiếm gần 50% tổng số vốn đăng ký, bao gồm 4279,3 triệu USD vốn đăng ký mới và 1351,8 triệu USD vốn tăng thêm; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 2526,8 triệu USD, chiếm 22,4% tổng vốn, bao gồm 2525,7 triệu USD vốn đăng ký mới và 1,1 triệu USD vốn tăng thêm; ngành xây dựng đạt 712,1 triệu USD, chiếm 6,3% tổng vốn, bao gồm 569,9 triệu USD vốn đăng ký mới và 142,2 triệu USD vốn tăng thêm.

Trong mười tháng, cả nước có 47 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Hải Dương dẫn đầu về vốn đăng ký với 2497,7 triệu USD, chiếm 28,1% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh 1762,8 triệu USD, chiếm 19,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu 562,5 triệu USD, chiếm 6,3%; Hà Nội 512,8 triệu USD, chiếm 5,8%; Tây Ninh 481,4 triệu USD, chiếm 5,4%; Bình Dương 364,9 triệu USD, chiếm 4,1%.

Trong số 48 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam mười tháng năm 2011, Đặc khu hành chính Hồng Công (Trung Quốc) là nhà đầu tư lớn nhất với 2862,3 triệu USD, chiếm 32,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 1419,3 triệu USD, chiếm 16%; Nhật Bản 922 triệu USD, chiếm 10,4%; CHND Trung Hoa 585,7 triệu USD, chiếm 6,6%; Hàn Quốc 499,8 triệu USD, chiếm 5,6%; Ma-lai-xi-a 357,8 triệu USD, chiếm 4%.

Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10/2011 ước tính đạt 529,9 nghìn tỷ đồng, bằng 89,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa 323,6 nghìn tỷ đồng, bằng 84,7%; thu từ dầu thô 81 nghìn tỷ đồng, bằng 116,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu 120,9 nghìn tỷ đồng, bằng 87,2%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 78,1% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 77,3%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước bằng 84,3%; thuế thu nhập cá nhân bằng 102,4%; thu phí xăng dầu bằng 72,1%; thu phí, lệ phí bằng 73,6%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10/2011 ước tính đạt 574,5 nghìn tỷ đồng, bằng 79,2% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 118,9 nghìn tỷ đồng, bằng 78,2% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 113,5 nghìn tỷ đồng, bằng 78,1%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể 377,5 nghìn tỷ đồng, bằng 80,5%; chi trả nợ và viện trợ 78,1 nghìn tỷ đồng, bằng 90,8%.

Thương mại, giá cả và dịch vụ

Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng mười tháng năm 2011 ước tính đạt 1561 nghìn tỷ đồng, tăng 23,1% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 3,9%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng mười tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 1232,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 78,9% tổng mức và tăng 23,3%; khách sạn nhà hàng đạt 173 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,1% và tăng 23,8%; dịch vụ đạt 140,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 9% và tăng 21,6%; du lịch đạt 15 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% và tăng 16,8%.

Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười ước tính đạt 8,3 tỷ USD, tăng 4,5% so với tháng trước và tăng 32,1% so với cùng kỳ năm 2010. Tính chung mười tháng năm 2011, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 78 tỷ USD, tăng 34,6% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 34,8 tỷ USD, tăng 30,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 43,2 tỷ USD, tăng 38,1%.

Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu mười tháng năm 2011 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, một mặt do lượng xuất khẩu một số mặt hàng tăng như: Sắn và sản phẩm sắn tăng 61,3%; sắt thép tăng 52,5%; hạt tiêu tăng 15%; xăng dầu tăng 14,3%; dầu thô tăng 6,7%, mặt khác do đơn giá xuất khẩu của nhiều mặt hàng trên thị trường tăng và ở mức cao. Trong mười tháng năm nay, kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng chủ lực tăng cao so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Hàng dệt may đạt 11,7 tỷ USD, tăng 29,4%; dầu thô đạt 6,1 tỷ USD, tăng 53,5%; giày dép đạt 5,1 tỷ USD, tăng 25,8%; thủy sản đạt 4,9 tỷ USD, tăng 22,8%; gạo đạt 3,2 tỷ USD, tăng 17,3%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,2 tỷ USD, tăng 16,2%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 3,2 tỷ USD, tăng 27,7%; cà phê đạt 2,3 tỷ USD, tăng 59,2%; cao su đạt 2,6 tỷ USD, tăng 55,7%.

Về thị trường xuất khẩu hàng hóa, trong chín tháng năm nay Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với gần 12,4 tỷ USD, chiếm 17,8% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 19,4% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thị trường EU với 11,6 tỷ USD, chiếm 16,6% và tăng 48,4%; thị trường ASEAN đạt 9,7 tỷ USD, chiếm 13,9% và tăng 29,2%; Trung Quốc đạt 7,5 tỷ USD, chiếm 10,8% và tăng 58,7%; Nhật Bản đạt 7,5 tỷ USD, chiếm 10,7% và tăng 36,3%.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười ước tính đạt 9,1 tỷ USD, giảm 4% so với tháng trước và tăng 23,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 86,4 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 48,1 tỷ USD, tăng 25,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 38,3 tỷ USD, tăng 29,2%.

Trong mười tháng năm nay, kim ngạch nhập khẩu nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất trong nước tăng cao so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Xăng dầu đạt 8,6 tỷ USD, tăng 65,6%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 5,6 tỷ USD, tăng 37,7%; hóa chất đạt 2,2 tỷ USD, tăng 31%; vải đạt 5,5 tỷ USD, tăng 28,2%; chất dẻo đạt 3,8 tỷ USD, tăng 26%; sản phẩm hóa chất đạt 2 tỷ USD, tăng 20,1%; phân bón đạt 1,4 tỷ USD, tăng 73,6%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 12,5 tỷ USD, tăng 13,4%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 2,4 tỷ USD, tăng 14,4%.

Thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta trong chín tháng năm 2011 vẫn tiếp tục là Trung Quốc với kim ngạch là 17,3 tỷ USD, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2010; tiếp đến là thị trường ASEAN với 15,5 tỷ USD, tăng 34%; Hàn Quốc 9,2 tỷ USD, tăng 36%; Nhật Bản 7,4 tỷ USD, tăng 16%; EU 5,4 tỷ USD, tăng 21%.

Nhập siêu hàng hóa tháng Mười ước tính đạt 800 triệu USD, bằng 9,6% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Nhập siêu mười tháng năm 2011 ước tính 8,4 tỷ USD, bằng 10,8% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Nếu loại trừ yếu tố vàng thì nhập siêu hàng hóa mười tháng năm nay ước tính 8,9 tỷ USD, bằng 11,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.

Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2011 tăng 0,36% so với tháng trước, trong đó nhóm giáo dục tăng cao nhất với 3,2%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,73%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,63%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,49%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,45%. Các nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại tăng nhẹ hoặc giảm so với tháng trước gồm: Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,3%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,06% (Lương thực tăng 1,27%; thực phẩm giảm 0,49%); bưu chính viễn thông giảm 0,17%; giao thông giảm 0,13%; nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,03%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2011 tăng 17,05% so với tháng 12/2010 và tăng 21,59% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân mười tháng năm 2011 tăng 18,5% so với bình quân cùng kỳ năm 2010.

Chỉ số giá vàng tháng 10/2011 giảm 4,22% so với tháng trước; tăng 24,97% so với tháng 12/2010 và tăng 43,18% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 10/2011 tăng 0,39% so với tháng trước; tăng 1,52% so với tháng 12/2010 và tăng 7,55% so với cùng kỳ năm 2010.

Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách mười tháng năm 2011 ước tính đạt 2331,6 triệu lượt khách, tăng 13,8% và 99,5 tỷ lượt khách.km, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 34,6 triệu lượt khách, tăng 10,3% và 23 tỷ lượt khách.km, tăng 10,7%; vận tải địa phương đạt 2297 triệu lượt khách, tăng 13,9% và 76,5 tỷ lượt khách.km, tăng 12,3%. Vận tải hành khách đường bộ mười tháng ước tính đạt 2145,3 triệu lượt khách, tăng 14,2% và 74,7 tỷ lượt khách.km, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 159,5 triệu lượt khách, tăng 9,5% và 3,4 tỷ lượt khách.km, tăng 14,4%; đường hàng không đạt 11,4 triệu lượt khách, tăng 12,9% và 17,4 tỷ lượt khách.km, tăng 10,8%; đường biển đạt 5,6 triệu lượt khách, tăng 2,4% và 340,7 triệu lượt khách.km, tăng 3,7%; đường sắt đạt 9,8 triệu lượt khách, tăng 2,3% và 3,7 tỷ lượt khách.km, tăng 3,5% .

Vận tải hàng hóa mười tháng ước tính đạt 665,3 triệu tấn, tăng 11,6% và 175,7 tỷ tấn.km, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 626,7 triệu tấn, tăng 12,2% và 57,7 tỷ tấn.km, tăng 7,5%; vận tải ngoài nước đạt 38,6 triệu tấn, tăng 4,3% và 118,0 tỷ tấn.km giảm 2,9%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 509,5 triệu tấn, tăng 12,4% và 27,7 tỷ tấn.km, tăng 11%; đường sông đạt 103,8 triệu tấn, tăng 11% và 13 tỷ tấn.km, tăng 13,7%; đường biển đạt 45,8 triệu tấn, tăng 6% và 131,3 tỷ tấn.km, giảm 2,7%; đường sắt đạt 6 triệu tấn, giảm 2,3% và 3,4 tỷ tấn.km, tăng 6,9%.

Bưu chính, viễn thông

Số thuê bao điện thoại phát triển mới mười tháng năm nay ước tính đạt 9,3 triệu thuê bao, giảm 17,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 46,1 nghìn thuê bao cố định, giảm 76,2% và 9,3 triệu thuê bao di động, giảm 16,1%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 10/2011 ước tính đạt 130,7 triệu thuê bao, tăng 3,9% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15,5 triệu thuê bao cố định, tăng 0,2% và 115,2 triệu thuê bao di động, tăng 4,4%.

Số thuê bao internet băng rộng trên cả nước tính đến cuối tháng 10/2011 ước tính đạt 4,2 triệu thuê bao, tăng 19,4% so với cùng thời điểm năm trước. Số người sử dụng internet tại thời điểm cuối tháng 10/2011 đạt 32,1 triệu người, tăng 24,4% so với cùng thời điểm năm trước. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông mười tháng ước tính đạt 130,9 nghìn tỷ đồng, tăng 23,7% so với cùng kỳ năm 2010.

Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta mười tháng năm 2011 ước tính đạt 4830,6 nghìn lượt người, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 2916,8 nghìn lượt người, tăng 11,9%; đến vì công việc 804,1 nghìn lượt người, giảm 4,7%; thăm thân nhân đạt 809 nghìn lượt người, tăng 71,9%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng không là 4045,4 nghìn lượt người, tăng 20,8% so với cùng kỳ năm 2010; đến bằng đường biển 30,2 nghìn lượt người, giảm 28,1%; đến bằng đường bộ 755 nghìn lượt người, giảm 3,4%.

Trong mười tháng năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam từ hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Trung Quốc đạt 1125 nghìn lượt người, tăng 45,8%; Hàn Quốc 428,8 nghìn lượt người, tăng 6%; Nhật Bản 385,7 nghìn lượt người, tăng 8,5%; Hoa Kỳ 361,3 nghìn lượt người, tăng 0,9%; Cam-pu-chia 341,1 nghìn lượt người, tăng 56,9%; Đài Loan 295,8 nghìn lượt người, tăng 5,9%; Ôx-trây-li-a 235,6 nghìn lượt người, tăng 3%; Ma-lai-xi-a 186,7 nghìn lượt người, tăng 11,7%; Pháp 169,1 nghìn lượt người, tăng 5,3%.

Một số vấn đề xã hội

Thiếu đói trong nông dân

Trong tháng 10/2011, cả nước có 15,1 nghìn hộ thiếu đói, giảm 38,1% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 66,8 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 38,2%. Tính chung mười tháng, cả nước có 595 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 17% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 2498 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói, giảm 10%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 16,9 nghìn tấn lương thực và 9,2 tỷ đồng.

Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm

Trong tháng Mười, trên địa bàn cả nước có 7,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (6 trường hợp tử vong); 1,2 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 75 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 63 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 55 trường hợp mắc cúm A (H1N1); 19,2 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng (21 trường hợp tử vong) và 342 người bị ngộ độc thực phẩm (3 trường hợp tử vong). Tính chung mười tháng năm nay, cả nước có 42,2 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (44 trường hợp tử vong); 7,1 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút (2 trường hợp tử vong); 914 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (18 trường hợp tử vong); 538 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 734 trường hợp mắc cúm A (H1N1) (14 trường hợp tử vong); 71,5 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng (130 trường hợp tử vong) và 93 vụ ngộ độc thực phẩm với 4,4 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 15 trường hợp tử vong.

Trong tháng 10/2011 cả nước đã phát hiện thêm 2 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến giữa tháng Mười lên gần 246 nghìn người, trong đó 99,3 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 51,5 nghìn người đã tử vong do AIDS.

Tai nạn giao thông

Trong tháng 9/2011 trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1018 vụ tai nạn giao thông, làm chết 866 người và làm bị thương 707 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giảm 1,8%; số người chết giảm 2,8%; số người bị thương giảm 6,4%. Tính chung chín tháng, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 10 nghìn vụ tai nạn giao thông, làm chết 8,4 nghìn người và làm bị thương 7,6 nghìn người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 1,4%, số người chết tăng 0,2%, số người bị thương tăng 1,8%. Bình quân một ngày trong chín tháng năm nay, cả nước xảy ra 37 vụ tai nạn giao thông, làm chết 31 người và làm bị thương 28 người.

Thiệt hại do thiên tai gây ra

Bão, lũ, mưa lớn xảy ra và kéo dài từ cuối tháng Chín gây thiệt hại lớn về người và tài sản tại nhiều địa phương, đặc biệt các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm 54 người chết và mất tích; gần 133 nghìn ngôi nhà bị ngập, tốc mái và cuốn trôi; trên 380 km đê, kè, kênh mương và hơn 800 km đường giao thông cơ giới bị ngập, sạt lở; gần 42 nghìn ha lúa và rau màu bị ngập úng, trong đó mất trắng 20 nghìn ha. Các địa phương bị thiệt hại nặng là: Quảng Bình, Đồng Tháp và An Giang với tổng số 35 người bị chết và mất tích; 85 nghìn ngôi nhà bị ngập, tốc mái, cuốn trôi; 19 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập và hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính gần 1,8 nghìn tỷ đồng, trong đó Đồng Tháp thiệt hại 643 tỷ đồng, An Giang 260 tỷ đồng, Quảng Bình 180 tỷ đồng.

Nguồn: GSO