
Tin tức
Để hiểu đúng về Tập đoàn kinh tế (23/06)
06/08/2010 - 991 Lượt xem
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, việc cơ cấu sắp xếp lại các doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé, hoạt động manh mún thành những doanh nghiệp lớn không chỉ có đủ khả năng trở thành đối tác mà còn có thể cạnh tranh với các Tập đoàn kinh tế (TĐKT) của nước ngoài trở thành một yêu cầu hết sức cấp thiết và phù hợp với quy luật phát triển.
Tại nhiều nước trên thế giới, TĐKT đã có bề dày lịch sử phát triển từ hàng trăm năm nay và trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, khái niệm TĐKT mới chỉ được nhắc đến nhiều trong thập niên cuối của thế kỷ trước. Có lẽ vì thế mà những nghiên cứu về TĐKT ở nước ta - cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn - vẫn còn rất hạn chế.
Nhiều vấn đề về TĐKT vẫn chưa được lý giải một cách thỏa đáng, ví dụ như: Thế nào là TĐKT? Bản chất của TĐKT là gì? TĐKT có những đặc trưng gì? TĐKT có tư cách pháp nhân hay không? Làm thế nào để thúc đẩy sự hình thành và phát triển các TĐKT ở Việt Nam?
Để giải đáp một cách thỏa đáng các vấn đề nói trên, cần có sự đầu tư nghiên cứu chuyên sâu và đòi hỏi nhiều công sức.
Vì vậy, trong khuôn khổ bài viết này, tác giả không đặt tham vọng giải quyết một cách thấu đáo tất cả những vấn đề đặt ra mà chỉ mong muốn chia sẻ một số kết quả nghiên cứu ban đầu, từ vấn đề lý luận đến thực tiễn, về TĐKT với mục đích trao đổi thông tin, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách cùng đông đảo độc giả quan tâm.
Định nghĩa tập đoàn kinh tế
Tại các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, khi nói đến “Tập đoàn kinh tế” người ta thường sử dụng các từ: “Consortium”, “Conglomerate”, “Cartel”, “Trust”, “Alliance”, “Syndicate” hay “Group”.
Ở châu Á, trong khi người Nhật gọi TĐKT là “Keiretsu” hoặc “Zaibatsu” thì người Hàn Quốc lại gọi là “Cheabol”; còn ở Trung Quốc, cụm từ “Jituan Gongsi” được sử dụng để chỉ khái niệm này (chính xác hơn là Tổng công ty).
Mặc dù về mặt ngôn ngữ, tùy theo từng nước, người ta có thể dùng nhiều từ khác nhau để nói về khái niệm TĐKT, song trên thực tế, việc sử dụng từ ngữ lại phụ thuộc vào nguồn gốc xuất xứ và tính chất đặc trưng của từng loại TĐKT; ví dụ:
Consortium
Xét về phương diện ngôn ngữ, “Consortium” là một từ gốc Latin có nghĩa là “đối tác, hiệp hội hoặc hội”, được sử dụng để chỉ sự tập hợp của 2 hay nhiều thực thể nhằm mục đích tham gia vào một hoạt động chung hoặc đóng góp nguồn lực để đạt được mục tiêu chung. Khi tham gia vào một Consortium, các công ty vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân độc lập của mình.
Thông thường, vai trò kiểm soát của Consortium đối với các công ty thành viên chủ yếu giới hạn trong các hoạt động chung của cả tập đoàn, đặc biệt là việc phân phối lợi nhuận. Sự ra đời của một Consortium được xác lập trên cơ sở hợp đồng, trong đó quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của từng công ty thành viên tham gia Consortium;
Cartel
Trong tiếng Anh, từ “Cartel” cũng rất hay được sử dụng để chỉ khái niệm “Tập đoàn kinh tế”. Cartel là một nhóm các nhà sản xuất độc lập có cùng mục đích là tăng lợi nhuận chung bằng cách kiểm soát giá cả, hạn chế cung ứng hàng hoá, hoặc các biện pháp hạn chế khác.
Đặc trưng tiêu biểu trong hoạt động của Cartel là việc kiểm soát giá bán hàng hoá, dịch vụ nhưng cũng có một số Cartel được tổ chức nhằm kiểm soát giá mua nguyên vật liệu đầu vào.
Tại nhiều nước, mặc dù bị cấm bởi luật chống phá giá (Antitrust law); tuy nhiên, nhiều Cartel vẫn tiếp tục tồn tại trên phạm vi quốc gia và quốc tế, dưới hình thức ngầm hoặc công khai, chính thức hoặc không chính thức.
Cũng cần lưu ý rằng theo khái niệm này thì một tổ chức đơn lẻ nắm giữ thế độc quyền không phải là một Cartel, dù rằng có thể nó lạm dụng sự độc quyền bằng cách khác.
Cartel thường có mặt tại những thị trường bị chi phối mạnh bởi một số loại hàng hoá nhất định, nơi có ít người bán và thường đòi hỏi những sản phẩm có tính đồng nhất cao;
Trong khi đó, các từ/cụm từ như “Group”, “Business group”, “Corporate group”, hay “Alliance” thường ám chỉ hình thức TĐKT được tổ chức trên cơ sở kết hợp tính đặc thù của tổ chức kinh tế với cơ chế thị trường: về đặc trưng, đó là một nhóm công ty có tư cách pháp nhân riêng biệt nhưng lại có mối quan hệ liên kết về phương diện quản lý. Mối quan hệ giữa các công ty trong một TĐKT có thể là chính thức hoặc không chính thức.
Có một điều đáng lưu ý là khi tồn tại như là một thực thể có tư cách pháp nhân, thì TĐKT lại được gọi là Conglomerate và/hoặc Holding company[1].
Các nhà kinh tế học cũng đã đưa ra nhiều định nghĩa về TĐKT; ví dụ: “TĐKT là một tập hợp các công ty hoạt động kinh doanh trên các thị trường khác nhau dưới sự kiểm soát về tài chính hoặc quản trị chung, trong đó các thành viên của chúng ràng buộc với nhau bằng các mối quan hệ tin cậy lẫn nhau trên cơ sở sắc tộc hoặc bối cảnh thương mại” (Leff, 1978);
“TĐKT là một hệ thống công ty hợp tác thường xuyên với nhau trong một thời gian dài” (Powell & Smith- Doesrr, 1934); “TĐKT dựa trên hoạt động cung ứng sản phẩm dịch vụ thông qua mối ràng buộc trung gian, một mặt ngăn ngừa sự liên minh ngắn hạn ràng buộc đơn thuần giữa các công ty, mặt khác ngăn ngừa một nhóm công ty sát nhập với nhau thành một tổ chức duy nhất” (Granovette, 1994).
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu cũng đã chỉ ra một cách rõ ràng rằng các TĐKT có thể dựa trên các kiểu liên minh khác nhau như: quan hệ ngân hàng (Frank & Myer, 1994; Kojima, 1998); sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban giám đốc (Mizruchi & Galaskiewicz, 1993); các liên minh chủ sở hữu (Kim, 1991); chia sẻ thông tin (Japelli & Pagano, 1993); các liên doanh (Bergluwf & Perotti, 1994); và các liên minh kiểu Cartel (Green & Porter, 1984).
Cấu trúc của các TĐKT
Ví dụ, các Keiretsu của người Nhật được tổ chức hoặc là theo chiều dọc hoặc là theo chiều ngang và phát triển tuỳ theo các ngành nghề. Các Keiretsu thường gồm một ngân hàng, một công ty mẹ hoặc một công ty thương mại và một nhóm gồm các hãng sản xuất (Lincoln et al. 1992).
Ngược lại, các Chaebol của người Hàn thường được kiểm soát bởi một gia đình hoặc một nhóm ít gia đình và được tổ chức thống nhất theo chiều dọc (Kim 1991).
Các TĐKT ở Đài Loan (được gọi là “Guanxiquiye”) lại thường có quy mô nhỏ, liên kết lỏng lẻo giữa các thực thể với phong cách quản lý nặng về lý thuyết, trái ngược với phong cách độc đoán, gia trưởng thường thấy ở Hàn Quốc và Nhật Bản (Fields, 1995).
Các TĐKT ở Trung Quốc lại phát triển theo cấu trúc riêng biệt: đó là các TĐKT đa ngành quy mô lớn có mối ràng buộc chặt chẽ với Nhà nước chứ không phải với các gia đình riêng biệt như ở Hàn Quốc (Keister, 1999). Đa số các nghiên cứu này được thực hiện tại các quốc gia có nền kinh tế thị trường mới nổi.
Mới đây, các TĐKT tại các nước như Thuỵ Điển và Đức đã trải qua nhiều thay đổi lớn về cơ cấu tổ chức; trong đó, quan hệ sở hữu đan xen và cấu trúc hình kim tự tháp dần biến mất.
Các lĩnh vực mà TĐKT tham gia
Các TĐKT thường hoạt động đa ngành nghề và huy động được nhiều nguồn lực từ những đối tượng có mối liên kết chặt chẽ, tin cậy lẫn nhau. Các TĐKT thường sản xuất và đầu tư vào nhiều thị trường sản phẩm hơn là đầu tư vào một dòng sản phẩm đơn lẻ.
Ví dụ, một TĐKT có thể hoạt động trong nhiều lĩnh vực rộng lớn như dệt may, xi- măng, sắt thép, khai khoáng,..
Ngoài ra, những TĐKT lớn còn có thể sở hữu những ngân hàng riêng và thực hiện các chức năng chủ yếu của thị trường vốn.
Trên thực tế, các TĐKT có cơ chế huy động và tập hợp các bí quyết kỹ thuật, kinh doanh cũng như nguồn vốn quy mô lớn, thực hiện các hoạt động kinh doanh hiện đại một cách hiệu quả nhất.
Hai hình thức liên minh phổ biến
- “Liên minh kinh doanh” (Business alliance): là sự thoả thuận giữa các công ty, thường là là vì mục tiêu giảm thiểu chi phí và tăng cường khả năng cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng, được ràng buộc bởi một thoả thuận đơn giản với sự chia sẻ các cơ hội và rủi ro một cách công bằng đối với các bên tham gia. Liên minh kinh doanh thường được quản lý bởi một Nhóm chuyên trách dự án;
- “Liên minh chiến lược” (Strategic alliance): là mối quan hệ chính thức vì lợi ích dài hạn được tạo nên bởi hai hay nhiều bên tham gia nhằm theo đuổi một nhóm mục tiêu đã thống nhất hoặc nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh doanh trọng yếu mà vẫn giữ được tính độc lập về tổ chức.
Các bên tham gia hợp tác với nhau trong các hoạt động kinh doanh với nguyên tắc mỗi một bên đóng góp những thế mạnh và khả năng của mình vào trong quá trình hợp tác.
Các lợi ích cơ bản của liên minh
(ii) Giảm thời gian thâm nhập thị trường và chu kỳ sống của sản phẩm (Sức ép về thời gian);
(iii) Khả năng đóng góp các kỹ năng và tài sản bổ sung mà không một công ty nào có thể dễ dàng tự mình phát triển;
(iv) Tiếp cận với các kiến thức và kinh nghiệm từ bên ngoài (Chuyển giao công nghệ);
(v) Nhanh chóng đạt được quy mô, khối lượng và tạo đà phát triển (Kinh tế nhờ quy mô- lớn hơn sẽ tốt hơn); (vi) Mở rộng các kênh phân phối và thị trường quốc tế (Đi vào thị trường nước ngoài);
(vii) Tạo uy tín trong ngành nghề và nâng cao nhận thức về thương hiệu;
(viii) Cung cấp các giá trị gia tăng cho khách hàng;
(ix) Thiết lập các chuẩn mực công nghệ đối với ngành nghề mà công ty sẽ được hưởng lợi.
Các liên minh chiến lược có thể được thực hiện dưới mọi hình thức và quy mô, từ hình thức hợp đồng cho đến các hình thức cổ phần.
Dù ở hình thức nào thì liên minh chiến lược cũng được xem là sự kết hợp sức mạnh và nguồn lực trong một giai đoạn nhất định hoặc không xác định nhằm đạt được mục tiêu chung của các doanh nghiệp;
Từ những nội dung trình bày trên đây, có thể tóm tắt khái niệm về TĐKT như sau: “TĐKT là tổ hợp các công ty có mối quan hệ sở hữu xâu chéo; có quan hệ mật thiết về chiến lược, thị trường hay sản phẩm; có mối liên kết trong hoạt động kinh doanh nhằm tập hợp và chia sẻ các nguồn lực nhằm tăng cường khả năng tích tụ tài sản, nâng cao năng lực cạnh tranh, tối đa hoá lợi nhuận và đạt được các mục tiêu chung.
Các đặc trưng cơ bản của TĐKT
(i) Có phạm vi hoạt động lớn trong một hoặc nhiều quốc gia;
(ii) Có quy mô lớn về nguồn vốn, nhân lực và doanh số hoạt động;
(iii) Có hình thức sở hữu hỗn hợp, trong đó có một chủ thể đóng vai trò chi phối;
(iv) Cơ cấu tổ chức phức tạp;
(v) Hoạt động đa ngành nghề, đa lĩnh vực nhưng thường có một ngành, nghề chủ đạo”.
Nguồn: Vietnamnet
