
Địa phương hóa - bí quyết thành công
06/08/2010 - 600 Lượt xem
Cách Tp.HCM, trung tâm kinh tế của Việt Nam, khoảng nửa giờ lái xe về phía Bắc là Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (VSIP). Với diện tích 500ha, VSIP là nơi tập trung của 230 công ty đến từ 22 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các mặt hàng sản xuất tại đây rất đa dạng, từ sôcôla đến mỹ phẩm, cáp quang đến linh kiện ôtô.
10 năm trước đây, VSIP được thành lập theo một dự án hợp tác giữa Chính phủ Việt nam và Chính phủ Singapore. Với sự khởi đầu đầy hứa hẹn này, người ta nghĩ rằng VSIP sẽ có điều kiện phát triển thuận lợi.
Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau lễ động thổ, Khu công nghiệp này đã phải chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997.
Bà Low Sin Leng, Chủ tịch điều hành SembCorp Parks Holdings, công ty đồng sở hữu, phát triển và quản lý VSIP, cho biết vào thời điểm đó, những khó khăn mà VSIP phải đối mặt bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính.Thứ nhất, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực khiến việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gặp khó khăn.Thứ hai, chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng trong giai đoạn đầu phát triển là rất cao. Mặt khác, nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi đó chưa coi Việt Nam là một địa điểm đầu tư hấp dẫn.
Tuy nhiên, sau những khó khăn ban đầu này, VSIP đã phát triển một cách rất ấn tượng. Trong 4 năm qua, VSIP đã đem lại lợi nhuận đáng kể cho phía Singapore, một "liên minh" gồm 5 công ty đứng đầu bởi Semb-Corp Industries, công ty con của tập đoàn Temasek Holdings thuộc Chính phủ nước này.
Hiện nay, trong số 4 khu công nghiệp do SembCorp Parks quản lý là VSIP, Batam và Bintan ở Indonesia và Wusi ở Trung Quốc, VSIP là khu công nghiệp hoạt động hiệu quả nhất. Được biết, lợi nhuận của VSIP trong năm 2002 là 4 triệu đôla và con số này tiếp tục tăng dần hàng năm.
Làm thế nào để một khu công nghiệp nhỏ, chỉ bằng 1/14 Khu công nghiệp Tô Châu ở Trung Quốc, cũng do một công ty Singapore quản lý, lại có thể vượt qua những khó khăn và đạt được những thành công đáng kể như vậy?
Những nguyên nhân khách quan…
Sau một vài năm đầu khó khăn, môi trường đầu tư ở Việt Nam bắt đầu được cải thiện một cách đáng kể.
Hiệp định Thương mại Song phương (BTA) giữa Việt Nam và Mỹ được ký kết vào năm 2000 đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài dành cho Việt Nam sự chú ý lớn. Với hiệp định này, Việt Nam cam kết mở cửa thị trường và tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ, cải thiện khung pháp lý cho môi trường kinh doanh và khả năng gia nhập WTO.
Ngoài ra, bà Low cũng cho rằng sau dịch Sars vào năm 2003 khiến Trung Quốc bị ảnh hưởng nặng nề, các nhà đầu tư nước ngoài trước đó chỉ chú ý đến thị trường Trung Quốc đã quyết định đa dạng hóa địa điểm đầu tư của mình. Việt Nam là một trong số những lựa chọn của họ.
Mặt khác, VSIP may mắn có được sự hỗ trợ của cả Chính phủ Việt Nam và chính quyền tỉnh Bình Dương. Chính quyền địa phương đã thành lập Ban quản lý VSIP và ủy quyền cho Ban Quản lý này được cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án có mức vốn đăng ký nhất định.
Sự hỗ trợ như vậy có ý nghĩa rất lớn đối với các nhà đầu tư ở VSIP. Theo ông Wang Eng Chin, Tổng giám đốc F&N Foods, một công ty có nhà máy sản xuất các sản phẩm sữa tại VSIP, các thủ tục cấp phép, thủ tục hải quan, vv đơn giản là những ưu đãi đáng kể mà chính quyền địa phương ở đây giành cho các nhà đầu tư.
…và chiến lược địa phương hóa
Bà Low cho biết, nguyên nhân dẫn tới chi phí cao trong giai đoạn đầu thành lập VSIP chính là việc áp dụng các tiêu chuẩn của Singapore đối với các công tác thiết kế và xây dựng. Khi đó, các nhà quản lý Singapore quá quan tâm đến vấn đề thương hiệu Singapore.
Tuy nhiên, sau đó, họ nhận ra rằng vẫn có thể duy trì được uy tín và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng nếu họ điều chỉnh các tiêu chuẩn Singapore cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế ở Việt Nam. Bởi vậy, họ bắt đầu sử dụng nhiều vật liệu của Việt Nam và thuê nhiều nhà thầu của Việt Nam hơn.
Chẳng hạn, ban đầu, dây cáp điện tại VSIP được lắp ngầm theo kiểu phổ biến ở Singapore. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi chi phí cao và sau đó, đã được chuyển sang lắp trên mặt đất.
Một yếu tố quan trọng khác là phía Singapore luôn sẵn sàng phối hợp với phía Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến người dân địa phương như tái định cư cho nông dân sống ở các khu vực mà đất được sử dụng để xây dựng Khu công nghiệp.
Theo thỏa thuận ban đầu, phía Việt Nam là Công ty Becamex chịu trách nhiệm về việc giải phóng mặt bằng và tái định cư. Tuy nhiên, việc này kéo dài thời gian và tốn kém hơn dự kiến. Do đó, phía Singapore đã đề nghị hợp tác giải quyết vấn đề này bằng cách tăng tiền bồi thường đất đai cho người dân địa phương.
Có lẽ chính quan điểm “cho và nhận” này là lý do khiến ông Nguyễn Văn Hùng, Tổng giám đốc Becamex coi mối quan hệ giữa phía Việt Nam và phía Singapore là quan hệ “đối tác tốt đẹp”. Theo ông, đối tác Singapore có tinh thần xây dựng cao và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm.
Một chiến lược địa phương hóa khác mà Semb-Corp Parks áp dụng đó là thực hiện chương trình đào tạo và chuyển giao bí quyết quản lý cũng như hệ thống giá trị doanh nghiệp của mình cho các nhân viên người Việt nam.
Hoạt động này cũng diễn ra thường xuyên ở các khu công nghiệp khác do Singapore quản lý như Tô Châu (Trung Quốc).
Trong vòng 4 năm trở lại đây, vị trí Tổng giám đốc của VSIP đều do người Việt Nam đảm trách. Hiện nay, chỉ có 3 người Singapore làm việc toàn thời gian tại Khu công nghiệp này. Việc chuyển giao này không hề gây bất kỳ một cản trở nào đối với các nhà đầu tư ở đây.
Ông Thomas Richard Siebert, Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ Stickley International của Mỹ đang hoạt động tại VSIP, cho biết chính phong cách quản lý tốt và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế là một trong những lý do khiến doanh nghiệp của ông đầu tư vào VSIP mặc dù chi phí ở đây có cao hơn một số nơi khác.
Ra đời từ sự hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Singapore, VSIP có một sự khởi đầu thuận lợi. Tuy nhiên, có thể nói, thành công ngày hôm nay của VSIP có đóng góp lớn của chiến lược thích ứng với tình hình địa phương mà Khu công nghiệp này áp dụng.
Kiều Oanh (Theo Strait Times)
Nguồn: http://www.vneconomy.com.vn, ngày 30/9/2006
