Số liệu thống kê
Tình hình kinh tế- xã hội 5 tháng đầu năm 2010
06/08/2010 - 299 Lượt xem
Kinh tế-xã hội nước ta năm tháng đầu năm 2010 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới tuy chưa thực sự thoát ra khỏi khủng hoảng nhưng đã và đang dần ổn định. Sản xuất kinh doanh trong nước tiếp tục phát triển theo hướng tích cực nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm 6,5% theo tinh thần Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/4/2010 của Chính phủ. Kết quả cụ thể của các ngành, các lĩnh vực như sau:
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp tháng Năm tập trung chủ yếu vào chăm sóc lúa đông xuân ở các địa phương phía Bắc và thu hoạch lúa đông xuân, xuống giống lúa hè thu ở các địa phương phía Nam. Diện tích gieo trồng lúa đông xuân của các địa phương phía Bắc đạt 1152,6 nghìn ha, bằng 100,2% vụ đông xuân năm 2009. Đến nay tuy dịch bệnh lùn sọc đen cơ bản được khống chế nhưng đã ảnh hưởng đến kết quả sản xuất của một số địa phương. Theo đánh giá ban đầu, năng suất lúa đông xuân ước tính của một số tỉnh giảm do ảnh hưởng của sâu bệnh như: Nghệ An giảm 4,7 tạ/ha; Phú Thọ giảm 4,3 tạ/ha; Quảng Ninh giảm 2,7 tạ/ha; Thanh Hóa giảm 1,6 tạ/ha; Hải Dương giảm 1,2 tạ/ha; Vĩnh Phúc giảm 1,2 tạ/ha; Thái Bình giảm 1 tạ/ha.
Tính đến trung tuần tháng Năm, các địa phương phía Nam thu hoạch 1913,7 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 98,9% diện tích gieo cấy và bằng 103,8% cùng kỳ năm trước; năng suất ước tính đạt 63,8 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha so với vụ đông xuân trước; sản lượng đạt 12,4 triệu tấn, tăng 4,2%. Các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch xong lúa đông xuân, năng suất ước tính đạt 65,7 tạ/ha, tăng 2 tạ/ha so với vụ đông xuân 2009; sản lượng đạt 10,3 triệu tấn, tăng 418,6 nghìn tấn. Sản lượng lúa đông xuân các vùng khác cũng tăng khá do diện tích tăng và thời tiết cuối vụ tương đối thuận, trong đó vùng Duyên hải Nam Trung Bộ ước tính tăng 80,9 nghìn tấn so với vụ đông xuân năm trước (diện tích tăng 7,7 nghìn ha); vùng Đông Nam Bộ tăng 13 nghìn tấn (diện tích tăng 2,2 nghìn ha); vùng Tây Nguyên tăng 5 nghìn tấn (diện tích tăng 2,6 nghìn ha). Một số tỉnh có sản lượng lúa đông xuân tăng cao là: Bình Thuận tăng 45,4 nghìn tấn; Bình Định tăng 15,5 nghìn tấn; Phú Yên tăng 11,7 nghìn tấn.
Cùng với việc thu hoạch lúa đông xuân, các địa phương phía Nam đang tập trung gieo sạ lúa hè thu. Tính đến trung tuần tháng Năm, diện tích lúa hè thu gieo sạ đạt 1257,8 nghìn ha, bằng 93,5% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1117,2 nghìn ha, bằng 93,7%.
Ngoài việc tập trung chăm sóc, thu hoạch lúa đông xuân và gieo cấy lúa hè thu, các địa phương trên cả nước còn đẩy mạnh gieo trồng các loại cây hoa màu. Tính đến trung tuần tháng Năm, diện tích gieo trồng ngô cả nước đạt 706,5 nghìn ha, bằng 98,8% cùng kỳ năm trước; khoai lang 102,3 nghìn ha, bằng 102,9%; sắn 238,1 nghìn ha, bằng 94,9%; lạc 177,8 nghìn ha, bằng 91,4%; đậu tương 141 nghìn ha, bằng 108,6%; rau đậu các loại 508,8 nghìn ha, bằng 101,5%.
Chăn nuôi: Theo kết quả điều tra chăn nuôi tại thời điểm 01/4/2010, đàn lợn cả nước có 27,3 triệu con, tăng 3% so với cùng thời điểm năm 2009; đàn gia cầm có 279,2 triệu con, tăng 8,3%; đàn trâu, bò giữ ổn định với 3,5 triệu con. Chăn nuôi lợn những tháng đầu năm tăng khá do giá thức ăn chăn nuôi ổn định. Từ cuối tháng Tư, dịch bệnh tai xanh trên lợn xuất hiện và xảy ra trên diện rộng ở các tỉnh phía Bắc đã ảnh hưởng đến mức tiêu thụ và gây tâm lý lo ngại cho người chăn nuôi. Tính đến ngày 24/5/2010, dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở các tỉnh/thành phố là: Dịch cúm gia cầm ở Đắk Lắk; dịch lở mồm long móng trên trâu, bò ở Quảng Ngãi; dịch tai xanh trên lợn ở Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hoà Bình, Thái Nguyên và Nghệ An. Hiện nay, dịch bệnh tai xanh trên lợn vẫn đang diễn biến phức tạp, các ngành chức năng cần tiếp tục triển khai các biện pháp phòng chống dịch, đặc biệt tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc giết mổ, vận chuyển nhằm khống chế, ngăn ngừa dịch bệnh lây lan.
Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung cả nước năm tháng đầu năm ước tính đạt 49,1 nghìn ha, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 89,4 triệu cây, bằng 100,2%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1481 nghìn m3, tăng 5,9%; sản lượng củi khai thác đạt 12 triệu ste, tăng 2,3%. Trong năm tháng đầu năm, diện tích rừng bị cháy và bị chặt phá là 3415,1 ha, tăng 45,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy 3087,1 ha, gấp 2,6 lần; diện tích rừng bị chặt phá 328 ha, bằng 28,5%. Các địa phương có diện tích rừng bị cháy nhiều là: Sơn La 916 ha; Lào Cai 795,4 ha; Yên Bái 581 ha; Hà Giang 262 ha; Cao Bằng 232 ha. Một số tỉnh có diện tích rừng bị chặt phá nhiều là: Bình Phước 194 ha; Đắk Nông 83,3 ha.
Theo cảnh báo của Ban chỉ đạo trung ương Phòng cháy chữa cháy rừng, đến ngày 25/5/2010, cả nước còn khu vực có nguy cơ cháy rừng cấp V (cấp cực kỳ nguy hiểm) tại tỉnh Ninh Thuận và khu vực có nguy cơ cháy rừng ở cấp IV (cấp nguy hiểm) tại hai tỉnh Đồng Nai và Phú Yên.
Thủy sản
Sản lượng thuỷ sản tháng 5/2010 ước tính đạt 376 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 291 nghìn tấn tăng 5,1%, tôm đạt 34 nghìn tấn tăng 6,3%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 5/2010 đạt 175,2 nghìn tấn, tăng 4,5%, trong đó cá đạt 143 nghìn tấn, tăng 4,4%; tôm đạt 21,2 nghìn tấn, tăng 6%. Mặc dù sản lượng nuôi trồng tăng nhưng thời tiết đang vào mùa nắng nóng gay gắt đã ảnh hưởng đến tiến độ thả nuôi tôm vụ chính. Bên cạnh đó, dịch bệnh tôm thân đỏ đốm trắng tiếp tục xảy ra trên diện tích thả nuôi chưa thu hoạch của một số địa phương, do đó nhiều hộ phải thu hoạch tôm sớm để hạn chế rủi ro, chấp nhận năng suất thấp. Các tỉnh có diện tích tôm bị dịch bệnh nhiều là: Kiên Giang 16045 ha, chiếm 22,8% diện tích thả nuôi; Trà Vinh 3520 ha, chiếm 18%; Tiền Giang 271 ha, chiếm 7,7%; Quảng Nam 500 ha, chiếm 35,7%. Tiến độ thả nuôi cá tra cũng bị ảnh hưởng do chi phí đầu vào tăng. Một số tỉnh có sản lượng cá tra đạt thấp hơn so với cùng kỳ năm trước là: An Giang thu hoạch 20 nghìn tấn, giảm 30%; Đồng Tháp 21 nghìn tấn, giảm 5%; Cần Thơ 9 nghìn tấn, giảm 14,3%. Sản lượng cá tăng chủ yếu do nuôi trồng các loài cá khác phát triển mạnh ở nhiều địa phương với hình thức nuôi lồng bè trên các sông, hồ và nuôi ruộng trũng, bãi triều.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng 5/2010 ước tính đạt 200,8 nghìn tấn, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước; trong đó khai thác biển đạt 185,3 nghìn tấn, tăng 6,3%. Thời tiết biển tương đối thuận lợi, lại đang vào mùa cá Nam đã khuyến khích ngư dân tích cực ra khơi đánh bắt nên sản lượng thủy sản khai thác đạt khá.
Tính chung năm tháng đầu năm, sản lượng thuỷ sản đạt 1824 nghìn tấn, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó cá đạt 1391,1 nghìn tấn, tăng 4,8%; tôm 165,6 nghìn tấn, tăng 6,6%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm tháng đầu năm đạt 814,1 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2009. Sản lượng thủy sản khai thác năm tháng đạt 1009,9 nghìn tấn, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 933,8 nghìn tấn, tăng 5,3%. Khai thác cá ngừ đại dương tại một số địa phương đang có thuận lợi về thời tiết nên sản lượng tăng khá so với cùng kỳ năm 2009, trong đó Phú Yên đạt 4,3 nghìn tấn, tăng 17,4%; Bình Định hơn 3 nghìn tấn, tăng 15%.
Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 5/2010 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 64,7 nghìn tỷ đồng, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 301,8 nghìn tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 9,8% (Trung ương quản lý tăng 13,3%; địa phương quản lý giảm 2,8%); khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 12,4% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,7% (dầu mỏ và khí đốt giảm 8%, các ngành khác tăng 20,5%).
Trong năm tháng đầu năm, nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng cao so với mức tăng chung toàn ngành là: Khí hoá lỏng tăng 93,3%; điều hoà nhiệt độ tăng 45,7%; lốp ô tô, máy kéo tăng 43,2%; xe chở khách tăng 38%; xe máy tăng 35,7%; sữa bột tăng 35,6%; kính thủy tinh tăng 32,7%; xe tải tăng 31,3%; tủ lạnh, tủ đá tăng 29,1%; xà phòng tăng 25,3%; gạch lát ceramic tăng 25,1%; điện sản xuất tăng 17,3%; khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 16,7%; xi măng tăng 16,2%; bia tăng 15,3%; giấy, bìa tăng 14,8%; sơn hóa học tăng 14,7%; quần áo người lớn tăng 14,4%; thủy hải sản chế biến tăng 13,7%. Một số sản phẩm có tốc độ tăng thấp hơn mức tăng bình quân là: Giầy dép ủng bằng da giả tăng 13,2%; nước máy thương phẩm tăng 12,4%; giầy thể thao tăng 11,4%; ti vi tăng 10,7%; thuốc lá điếu tăng 9,4%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo tăng 8,7%; phân hoá học tăng 7,6%; vải dệt từ sợi bông tăng 6,6%; than sạch tăng 6,1%; thép tròn tăng 6%; máy giặt tăng 3%; dầu thực vật tinh luyện tăng 2,2%; đường kính tăng 0,6%.
Một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có qui mô sản xuất công nghiệp lớn có tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp cao so với cùng kỳ năm trước là: Vĩnh Phúc tăng 41,9%; Phú Thọ tăng 24,1%; Đà Nẵng tăng 20,1%; Hải Dương tăng 18,9%; Thanh Hoá tăng 18,5%; Đồng Nai tăng 17,3%; Quảng Ninh tăng 17,2%; Bình Dương tăng 17,1%. Bên cạnh đó, một số địa phương có tốc độ tăng thấp hơn mức tăng chung cả nước như: Cần Thơ tăng 13%; Hà Nội tăng 12,1%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 10,7%; Khánh Hoà tăng 8,3%.
Đầu tư
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện tháng 5/2010 ước tính đạt 12,2 nghìn tỷ đồng, bằng 9,8% kế hoạch năm, bao gồm: Vốn trung ương đạt 3,8 nghìn tỷ đồng, bằng 10,1%; vốn địa phương đạt 8,4 nghìn tỷ đồng, bằng 9,6%. Tính chung năm tháng đầu năm, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện đạt 45,6 nghìn tỷ đồng, bằng 36,5% kế hoạch năm, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 13,9 nghìn tỷ đồng, bằng 37,1% kế hoạch năm, trong đó: Vốn đầu tư thực hiện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đạt 2001 tỷ đồng, bằng 62,8% kế hoạch năm; Bộ Giáo dục và Đào tạo 568,3 tỷ đồng, bằng 55,8%; Bộ Giao thông Vận tải 3210 tỷ đồng, bằng 48,3%; Bộ Công Thương 1358 tỷ đồng, bằng 33,6%; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch 193 tỷ đồng, bằng 32,9%; Bộ Xây dựng 318 tỷ đồng, bằng 32,1%; Bộ Y tế 383 tỷ đồng, bằng 30,5% kế hoạch năm.
- Vốn địa phương quản lý đạt 31,7 nghìn tỷ đồng, bằng 36,2% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có tiến độ thực hiện nhanh là: Ninh Bình đạt 1209,4 tỷ đồng, bằng 75% kế hoạch năm; Hoà Bình 642 tỷ đồng, bằng 60,7%; Đà Nẵng 2209,9 tỷ đồng, bằng 53,5%; Hải Phòng 863,5 tỷ đồng, bằng 52%; Bắc Ninh 594,6 tỷ đồng, bằng 49,3%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/5/2010 đạt 7,5 tỷ USD, bằng 77% cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Vốn đăng ký của 360 dự án được cấp phép mới đạt 7,1 tỷ USD, tuy giảm 14,7% về số dự án nhưng tăng 40,1% về số vốn so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bổ sung của 107 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 403 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 5 tháng đầu năm ước tính đạt 4,5 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2009.
Trong năm tháng đầu năm, cả nước có 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Bà Rịa-Vũng Tàu có số vốn đăng ký lớn nhất với 2,2 tỷ USD, chiếm 30,2% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Quảng Ninh 2,1 tỷ USD, chiếm 30,1%; Nghệ An 1 tỷ USD, chiếm 14,1%; thành phố Hồ Chí Minh 482,2 triệu USD, chiếm 6,8%; Quảng Ngãi 340 triệu USD, chiếm 4,8%; Hà Tĩnh 168,4 triệu USD, chiếm 2,4%.
Trong số 36 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam năm tháng đầu năm, Hà Lan là nhà đầu tư lớn nhất với 2,2 tỷ USD, chiếm 31% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 1,4 tỷ USD, chiếm 19,4%; Nhật Bản 1,1 tỷ USD, chiếm 15,5%; Hoa Kỳ 961 triệu USD, chiếm 13,5%; Đài Loan 767,9 triệu USD, chiếm 10,8%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 204,6 triệu USD, chiếm 2,9%; Xin-ga-po 161 triệu USD, chiếm 2,3%.
Thu hút vốn ODA từ đầu năm thông qua các Hiệp định ký kết với các nhà tài trợ đạt 497 triệu USD, bao gồm vốn vay đạt 454 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại đạt 43 triệu USD. Giải ngân vốn ODA năm tháng đầu năm ước tính đạt 844 triệu USD, bằng 35% kế hoạch năm, bao gồm vốn vay đạt 767 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại đạt 77 triệu USD.
Thu chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/5/2010 ước tính bằng 38,3% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 38,4%; thu từ dầu thô bằng 33,3%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 41,4%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 41,5%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 33,8%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 35,8%; thu thuế thu nhập cá nhân bằng 37,1%; thu phí xăng dầu bằng 38,2%; thu phí, lệ phí bằng 34,1%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/5/2010 ước tính bằng 33,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 35,8%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 33,8%; chi trả nợ và viện trợ bằng 38,1%.
Thương mại, giá cả, dịch vụ
Tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm tháng đầu năm ước tính đạt 620,6 nghìn tỷ đồng, tăng 26,9% so với cùng kỳ năm 2009, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng 16,7%. Trong tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm tháng đầu năm, kinh doanh thương nghiệp đạt 489,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 78,9% tổng số và tăng 27,5%; khách sạn nhà hàng đạt 68,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 11%, tăng 23,5%; dịch vụ đạt 56,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,1% và tăng 25,2%; du lịch đạt 6,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% và tăng 32,9%.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 5/2010 ước tính đạt 6,1 tỷ USD, tăng 14,4% so với tháng trước và tăng 37,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm tháng đầu năm 2010, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 25,8 tỷ USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 12 tỷ USD, tăng 0,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm cả dầu thô) đạt 13,8 tỷ USD, tăng 25,9%, nếu không kể dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu khu vực này đạt 11,7 tỷ USD, tăng 39,1%.
Nếu loại trừ yếu tố tái xuất vàng của năm nay và năm trước thì xuất khẩu năm tháng đầu năm tăng 23% so với cùng kỳ năm 2009, chủ yếu do đơn giá xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng (trừ cà phê) đều tăng, trong đó giá hạt điều tăng 19,3%, hạt tiêu tăng 33,4%, gạo tăng 8,4%, chè tăng 7,5%, cao su tăng 91,1%, sắn và sản phẩm sắn tăng 81,9%, than đá tăng 53,3%, dầu thô tăng 64,4%. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu có tốc độ tăng cao về kim ngạch trong 5 tháng đầu năm là: Dệt may đạt 3,8 tỷ USD, tăng 17,1%; giày dép đạt 1,8 tỷ USD, tăng 7,7%; thủy sản đạt 1,6 tỷ USD tăng 18%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,2 tỷ USD, tăng 31,1%; điện tử máy tính đạt 1,2 tỷ USD, tăng 30,4%; máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 1,1 tỷ USD, tăng 72,9%; than đá đạt 646 triệu USD, tăng 34,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 638 triệu USD, tăng 106,6%; sắt thép 427 triệu USD, tăng 244,1%. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác mặc dù giá tăng nhưng lượng giảm nhiều nên kim ngạch vẫn giảm so với cùng kỳ năm trước: Dầu thô đạt 2,1 tỷ USD, giảm 17,4% (lượng giảm 49,8%); gạo đạt 1,4 tỷ USD, giảm 3% (lượng giảm 10,5%); sắn và sản phẩm của sắn đạt 283 triệu USD, giảm 11,5% (lượng giảm 51,3%).
Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu bốn tháng đầu năm sang một số thị trường chủ yếu đều tăng so với cùng kỳ năm 2009, trong đó: Thị trường Mỹ đạt 3,9 tỷ USD, tăng 22,3%; ASEAN đạt 3,4 tỷ USD, tăng 21,8%; EU đạt 3,1 tỷ USD, tăng 4,2%; Nhật Bản đạt 2,2 tỷ USD, tăng 23,6%; Trung Quốc đạt 1,8 tỷ USD, tăng 38,4%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 5/2010 ước tính đạt 6,9 tỷ USD, tăng 5,5% so với tháng trước và tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm tháng đầu năm 2010, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 31,2 tỷ USD, tăng 29,8% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 18,2 tỷ USD, tăng 18,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13 tỷ USD, tăng 50,5%.
Tương tự xuất khẩu, đơn giá hàng hóa nhập khẩu tăng cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu đẩy kim ngạch nhập khẩu năm tháng đầu năm lên cao. Nếu tính 13 mặt hàng có lượng theo đơn giá bình quân cùng kỳ năm 2009 thì tổng kim ngạch nhập khẩu 5 tháng đầu năm nay tăng khoảng 20%. Nhìn chung 5 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 5 tỷ USD, tăng 11,3%; xăng dầu đạt 2,8 tỷ USD, tăng 16,3%; sắt thép đạt 2,2 tỷ USD, tăng 29%; vải đạt 2 tỷ USD, tăng 23,9%; điện tử máy tính và linh kiện đạt 1,7 tỷ USD, tăng 39,1%; chất dẻo đạt 1,4 tỷ USD, tăng 50,6%; nguyên, phụ liệu dệt may; giày dép đạt 1 tỷ USD, tăng 31,7%; ôtô đạt 1 tỷ USD, tăng 39,5%, trong đó ôtô nguyên chiếc đạt 301 triệu USD, giảm 2,6%.
Nhập khẩu hàng hoá bốn tháng đầu năm từ các thị trường lớn tăng mạnh, trong đó thị trường Trung Quốc đạt 5,5 tỷ USD, tăng 33,1% so với cùng kỳ năm trước; ASEAN đạt 4,8 tỷ USD, tăng 36%; Hàn Quốc đạt 2,6 tỷ USD, tăng 47%; Nhật Bản đạt 2,6 tỷ USD, tăng 31%.
Nhập siêu hàng hóa tháng 5/2010 ước tính 750 triệu USD, bằng 12,3% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Tính chung năm tháng đầu năm, nhập siêu là 5,4 tỷ USD, bằng 20,8% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5/2010 tăng 0,27% so với tháng trước, trong đó nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng cao nhất với 1,46%. Các nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giá tăng thấp ở mức dưới 0,4% gồm: Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,39%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,37%; hai nhóm đồ uống và thuốc lá; may mặc, mũ nón, giầy dép đều tăng 0,32%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,27%; giao thông tăng 0,12%; giáo dục tăng 0,07%. Các nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giá giảm là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,12% (lương thực giảm 1,29%; thực phẩm tăng 0,09%); bưu chính viễn thông giảm 0,05%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5/2010 so với cùng kỳ năm trước tăng 9,05%; so với tháng 12/2009 tăng 4,55%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 5 tháng đầu năm tăng 8,76% so với bình quân năm 2009.
Chỉ số giá vàng tháng 5/2010 tăng 1,91% so với tháng trước; giảm 2,71% so với tháng 12/2009 và tăng 35,62% so với cùng kỳ năm 2009. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 5/2010 giảm 0,63% so với tháng trước; tăng 0,58% so với tháng 12/2009 và tăng 5,86% so với cùng kỳ năm 2009.
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận chuyển hành khách năm tháng đầu năm ước tính đạt 954,4 triệu lượt khách, tăng 13,4% và 40,9 tỷ lượt khách.km, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 14,7 triệu lượt khách, tăng 11,3% và 10 tỷ lượt khách.km, tăng 14,5%; vận tải địa phương đạt 939,7 triệu lượt khách, tăng 13,9% và 30,8 tỷ lượt khách.km, tăng 15,9%. Trong các ngành vận tải, vận tải đường bộ đạt 873,1 triệu lượt khách, tăng 14,2% và 29,7 tỷ lượt khách.km, tăng 14,1%; vận tải đường sông đạt 68,8 triệu lượt khách, tăng 3% và 1,4 tỷ lượt khách.km, tăng 0,5%; vận tải đường biển đạt 2,7 triệu lượt khách, tăng 4,1% và 171,5 triệu lượt khách.km, tăng 5,3 %; vận tải đường sắt đạt 4,5 triệu lượt khách, tăng 3% và 1,6 tỷ lượt khách.km, tăng 2,9%; vận tải đường không đạt 5 triệu lượt khách, tăng 29,6% và 7,9 tỷ lượt khách.km, tăng 25,6%.
Vận tải hàng hóa năm tháng đầu năm ước tính đạt 285,5 triệu tấn, tăng 11,8% và 80,6 tỷ tấn.km, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 265,9 triệu tấn, tăng 12,3% và 22,5 tỷ tấn.km, tăng 10,2%; vận tải ra ngoài nước đạt 19,6 triệu tấn, tăng 10,9% và 58,1 tỷ tấn.km tăng 8,9%. Trong các ngành vận tải, vận tải hàng hoá đường bộ năm tháng đầu năm ước tính đạt 212,7 triệu tấn, tăng 12,7% và 11,1 tỷ tấn.km, tăng 12,1%; đường sông đạt 48,3 triệu tấn, tăng 5,1% và 7,7 tỷ tấn.km, tăng 2,1%; đường biển đạt 21,1 triệu tấn, tăng 20% và 59,9 tỷ tấn.km, tăng 10%; đường sắt đạt 3,4 triệu tấn, tăng 1,4% và 1,6 tỷ tấn.km, tăng 4,6%.
Bưu chính, viễn thông
Số thuê bao điện thoại phát triển mới năm tháng đầu năm ước tính đạt 18,5 triệu thuê bao, tăng 21,9% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm 986,2 nghìn thuê bao cố định, giảm 24,1% và 17,5 triệu thuê bao di động, tăng 26,2%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 5/2010 ước tính đạt 148,9 triệu thuê bao, tăng 54,3% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 20 triệu thuê bao cố định, tăng 30% và 128,9 triệu thuê bao di động, tăng 58,9%. Số thuê bao điện thoại của Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông tính đến cuối tháng 5/2010 ước tính đạt 75,1 triệu thuê bao, tăng 30,4% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 11,6 triệu thuê bao cố định, tăng 6,4% và 63,5 triệu thuê bao di động, tăng 36%.
Số thuê bao internet băng rộng trên cả nước tính đến cuối tháng 5/2010 ước tính đạt 3,5 triệu thuê bao, tăng 41,2% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 2,5 triệu thuê bao, tăng 56,8%. Số người sử dụng internet tính đến cuối tháng 5/2010 là 24,6 triệu người, tăng 14,6% so với cùng thời điểm năm 2009. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông năm tháng đầu năm ước tính đạt 46,2 nghìn tỷ đồng, tăng 40,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 31 nghìn tỷ đồng, tăng 39,6%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta năm tháng đầu năm ước tính đạt 2223,8 nghìn lượt người, tăng 37,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1410,1 nghìn lượt người, tăng 43%; đến vì công việc 447,2 nghìn lượt người, tăng 56,7%; thăm thân nhân đạt 249,7 nghìn lượt người, tăng 5,9%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường không là 1807,7 nghìn lượt người, tăng 34,3% so với cùng kỳ năm 2009; đến bằng đường biển 19 nghìn lượt người, giảm 43%; đến bằng đường bộ 397,1 nghìn lượt người, tăng 68,7%.
Trong năm tháng đầu năm, khách quốc tế đến Việt Nam từ hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ đều tăng trở lại: Trung Quốc 399,4 nghìn lượt người, tăng 111,2% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 220,6 nghìn lượt người, tăng 28,5%; Hoa Kỳ 200,1 nghìn lượt người, tăng 7,7%; Nhật Bản 184,6 nghìn lượt người, tăng 17,7%; Đài Loan 142,5 nghìn lượt người, tăng 21,2%; Ôx-trây-li-a 131,1 nghìn lượt người, tăng 31,6%; Cam-pu-chia 104,3 nghìn lượt người, tăng 106,4%; Pháp 97,9 nghìn lượt người, tăng 18,6%; Thái Lan 94,3 nghìn lượt người, tăng 24,3%; Ma-lai-xi-a 78,2 nghìn lượt người, tăng 8,5%.
Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Theo báo cáo của các địa phương, trong tháng 5/2010 (tính đến 21/5), cả nước có 95,7 nghìn hộ thiếu đói với 400,7 nghìn nhân khẩu thiếu đói, chiếm 0,8% tổng số hộ nông nghiệp và 0,8% tổng số nhân khẩu nông nghiệp. So với tháng trước, số hộ thiếu đói giảm 57,4%; số nhân khẩu thiếu đói giảm 45,2%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm đến nay, các cấp, các ngành, các đoàn thể từ trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 17,3 nghìn tấn lương thực và 7,7 tỷ đồng. Riêng trong tháng Năm, các hộ thiếu đói đã được hỗ trợ gần 1,4 tỷ đồng và khoảng 238 tấn lương thực.
Tình hình dịch bệnh
Trong thời gian từ 21/4 đến 21/5/2010, cả nước có 3,4 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 1,2 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 5,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 120 trường hợp mắc bệnh viêm não virút và 43 trường hợp mắc thương hàn. Tính chung 5 tháng đầu năm, cả nước có 12,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 1,9 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 9,7 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 157 trường hợp mắc bệnh viêm não virút và 164 trường hợp mắc thương hàn. Trong tháng cũng đã phát hiện thêm 1 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước tính đến 21/5/2010 lên 211,4 nghìn người, trong đó 83,4 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 45,7 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Tình trạng ngộ độc thực phẩm tập thể vẫn xảy ra tại một số địa phương. Trong tháng 5/2010, đã xảy ra 20 vụ ngộ độc thực phẩm tại 15 tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, làm 704 người bị ngộ độc, trong đó 10 trường hợp tử vong. Tính từ đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 50 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 1,5 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 23 trường hợp tử vong.
Tai nạn giao thông
Trong tháng 4/2010, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1095 vụ tai nạn giao thông, làm chết 929 người và làm bị thương 742 người. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 12,3%, số người chết tăng 17,5%, số người bị thương tăng 11,4%. Tính chung bốn tháng đầu năm 2010, cả nước đã xảy ra 4590 vụ tai nạn giao thông, làm chết 3790 người và làm bị thương 3385 người. So với cùng kỳ năm 2009, số vụ tai nạn giao thông tăng 9,6%; số người chết giảm 4%; số người bị thương tăng 23,7%. Bình quân 1 ngày trong bốn tháng đầu năm, cả nước có 38 vụ tai nạn giao thông, làm chết 32 người và làm bị thương 28 người.
Thiên tai
Mưa lũ lớn xảy ra trong tháng đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư của nhiều địa phương. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm 17 người chết và mất tích; 59 người bị thương; 330 ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; 20,6 nghìn ngôi nhà bị ngập nước, sạt lở, tốc mái; gần 3,6 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính hơn 111 tỷ đồng.
Khái quát lại, hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành, các lĩnh vực trong năm tháng đầu năm tiếp tục đạt được kết quả tích cực. Những biểu hiện chưa ổn định của một số cân đối vĩ mô đang có xu hướng được cải thiện. Tuy nhiên, kinh tế nước ta vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức. Giá cả nhiều hàng hóa trên thị trường thế giới tăng do sự phục hồi và phát triển nhanh của một số nền kinh tế lớn, từ đó ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của sản xuất trong nước. Nhập siêu mặc dù đang được kiềm chế nhưng vẫn ở mức cao. Nguồn lực ưu tiên để thực hiện các dự án đầu tư trọng điểm và các chính sách an sinh xã hội còn gặp khó khăn. Do đó, để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2010, trong thời gian tới các cấp, các ngành, các địa phương cần thực hiện đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô, tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau đây:
Một là, tiếp tục thực hiện và điều hành chính sách tiền tệ và tài chính thận trọng, linh hoạt, đồng bộ để ngăn chặn lạm phát cao trở lại. Phấn đấu tăng thu trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất của các ngành, lĩnh vực, các thành phần kinh tế; đồng thời triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát để nâng cao hiệu quả thu chi ngân sách nhà nước.
Hai là, thực hiện tích cực và đồng bộ các giải pháp được quy định trong Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 05/5/2010 của Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết của loại doanh nghiệp này với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển Sản xuất là hoạt động khai thác, chế tạo, gia công sản phẩm hàng hoá.
href="http://luat.xalo.vn/thuat-ngu-phap-ly/133355166/San-xuat.html">sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.
Ba là, tập trung đẩy mạnh đầu tư có hiệu quả trên cơ sở rà soát, sắp xếp danh mục các dự án đầu tư theo thứ tự mục tiêu ưu tiên, đặc biệt các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, từ đó có kế hoạch bố trí đủ vốn cho các dự án trọng điểm, dự án cấp bách phải hoàn thành trong năm 2010.
Bốn là, tăng cường và đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, theo dõi thường xuyên và thu thập đầy đủ thông tin về tình hình cung cầu các mặt hàng trọng yếu trên thị trường thế giới, những mặt hàng có khối lượng hàng hóa lớn, những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh; đặc biệt phải đón đầu được những thị trường lớn đang hồi phục để tăng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Kiểm soát chặt chẽ cơ cấu hàng nhập khẩu; đẩy nhanh quá trình phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ; thực hiện hiệu quả các giải pháp kỹ thuật hạn chế nhập khẩu đối với các hàng hóa xa xỉ để hạn chế thâm hụt thương mại.
Năm là, theo dõi sát diễn biến thời tiết và dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi để kịp thời ứng phó và áp dụng các biện pháp phòng trừ hiệu quả, nhằm giảm tối đa thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Khẩn trương xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện hiệu quả Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, đảm bảo mọi đối tượng đều được hưởng quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ theo quy định.
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê