
Báo cáo của chính phủ
Những nội dung chủ yếu về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 - Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội (Phần I)
06/08/2010 - 362 Lượt xem
I. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch năm 2005
Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XI đã thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2005. Quán triệt Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP ngày 14 tháng 1 năm 2005, đề ra các giải pháp chính sách và tập trung chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2005.
Trong những tháng đầu năm 2005, hạn hán diễn ra gay gắt trên diện rộng, bão lụt xảy ra liên tiếp gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân; nguy cơ cao về cháy rừng; dịch cúm gia cầm tái phát trên phạm vi khá lớn và diễn biến phức tạp; tình trạng thiếu điện, giá xăng dầu và một số nguyên liệu quan trọng tăng tác động xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Trước bối cảnh trên, bên cạnh việc thực hiện các biện pháp cấp bách khống chế và dập tắt dịch cúm gia cầm và hỗ trợ kịp thời giảm thiểu tác hại của thiên tai; tập trung chỉ đạo, thực hiện nhiều giải pháp chính sách cả ở tầm vĩ mô và các biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm thực hiện các mục tiêu kế hoạch đề ra, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện giao ban sản xuất, đầu tư và xuất khẩu hằng tháng, xử lý tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong sản xuất kinh doanh; thực hiện nhiều biện pháp kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng cường quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự xã hội,... đã kiểm soát và hạn chế phần lớn tác động tiêu cực của giá cả tăng cao...
Trên cơ sở đánh giá các kết quả đạt được trong 9 tháng đầu năm (1), với xu thế tăng trưởng cao, ổn định, quý sau cao hơn quý trước, dự báo các yếu tố tác động đến nền kinh tế cả trong và ngoài nước, đặc biệt là sự chỉ đạo kiên quyết, kịp thời của Chính phủ; quyết tâm cao của các ngành, các cấp, của các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các giải pháp chính sách đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, kiềm chế tốc độ tăng giá, ổn định các cân đối kinh tế vĩ mô, giải quyết có hiệu quả một số vấn đề xã hội bức xúc, đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, tăng cường công tác cải cách hành chính, công tác phòng chống tham nhũng và đẩy mạnh tiến độ xây dựng và ban hành các luật để bảo đảm yêu cầu gia nhập WTO, dự báo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cả năm 2005 trên các chỉ tiêu chủ yếu như sau:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 8,4% (kế hoạch là 8,5%), GDP bình quân đầu người đạt khoảng 640 USD. Chính phủ đang tập trung chỉ đạo, tăng cường các biện pháp thúc đẩy sản xuất, tăng xuất khẩu, phát triển dịch vụ,... phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 8,5% như mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,2% (kế hoạch là 5,2%); giá trị tăng thêm tăng 4,1%, vượt kế hoạch đề ra là 3,8%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16,5%, vượt kế hoạch đề ra là 16%; giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,7% (kế hoạch là 11%). Giá trị tăng thêm các ngành dịch vụ tăng 8,4% (kế hoạch là 8,2%). Chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 8% (kế hoạch là dưới 6,5%). Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 20%, vượt kế hoạch đề ra là 16%. Tổng thu ngân sách nhà nước đạt trên 210 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán đề ra là 183 nghìn tỷ đồng; tổng chi Ngân sách nhà nước đạt trên 258 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán là 229,8 nghìn tỷ đồng; bội chi ngân sách nhà nước là 4,86% GDP (dự toán 5%). Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội đạt 38,2% GDP, vượt kế hoạch đề ra là 36,5%. Tạo việc làm mới cho 1,6 triệu người (kế hoạch là 1,6 triệu lao động); trong đó xuất khẩu lao động 7,5 vạn người (kế hoạch là 7 vạn lao động); số học sinh học nghề dài hạn tăng 12% (kế hoạch là tăng 12%). Giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn cũ) xuống còn 7% (kế hoạch là dưới 7%). Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống xấp xỉ 25% (kế hoạch là 25%). Tỷ lệ sinh giảm 0,04% (kế hoạch là 0,04%).
Những mặt nổi bật chủ yếu trong năm 2005:
Một là, tốc độ tăng trưởng đạt mức cao nhất trong 5 năm qua, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, chất lượng và hiệu quả được nâng lên.
Dự báo tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm 2005 đạt khoảng từ 8,4%; trong đó: nông, lâm, ngư nghiệp 4,1%, công nghiệp và xây dựng 10,7%, dịch vụ 8,4%. Tỷ trọng của ngành nông lâm ngư nghiệp đã giảm từ 21,8% năm 2004 xuống còn 20,7% năm 2005. Trong khi đó, tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng từ 40,1% năm 2004 lên 40,8% năm 2005. Tỷ trọng của ngành dịch vụ tăng từ 38,1% năm 2004 lên 38,5% năm 2005.
Trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp, cơ cấu nội bộ ngành đã có sự chuyển dịch đáng kể. Tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm từ 76,5% năm 2004 xuống còn 75,71% năm 2005. Tỷ trọng của ngành thủy sản tăng từ 19,9% năm 2004 lên 20,85% năm 2005. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp có chuyển biến tích cực, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến, chế tác tiếp tục tăng lên, giá trị sản xuất của ngành từ 83% năm 2004 tăng lên 84,7% năm 2005; trong khi tỷ trọng của ngành khai thác mỏ giảm từ 6,2% năm 2004 xuống còn 5,6% năm 2005. Cơ cấu nội bộ các ngành dịch vụ bắt đầu có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Hoạt động xuất khẩu có chuyển biến rõ rệt, ngày càng có sự tham gia sâu rộng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Chất lượng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế cũng được cải thiện một bước. Ðóng góp vào tăng trưởng gồm các yếu tố về vốn, lao động và tiến bộ khoa học công nghệ, trong đó đóng góp của khoa học công nghệ vào tăng trưởng trong thời gian qua là rất rõ, trước hết là ứng dụng khoa học công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp. Do áp dụng công nghệ sản xuất tiên tiến và chú trọng đầu tư đổi mới trang thiết bị phục vụ sản xuất nên năng suất lao động xã hội đã tăng lên từ 17 triệu đồng/lao động/năm 2004 lên 19 triệu đồng/lao động/năm 2005.
Hai là, nhiều ngành, lĩnh vực tiếp tục phát triển khá. Mặc dù gặp khó khăn do hạn hán, lũ lụt, bão, dịch cúm gia cầm, thiếu điện nhưng ngành nông nghiệp đã vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển ổn định; giá trị tăng thêm của toàn ngành vượt kế hoạch đề ra. Ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng 16,5%, vượt kế hoạch (kế hoạch là 16%). Chất lượng một số sản phẩm được nâng lên, có thị trường tiêu thụ tốt; kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp tăng trên 20%, chiếm 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các ngành dịch vụ như du lịch, bưu chính viễn thông, vận tải, ngân hàng, bảo hiểm,... phát triển khá; chất lượng các loại dịch vụ từng bước được nâng lên, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của đời sống. Thị trường trong nước ngày càng được mở rộng; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt mức tăng cao hơn so nhiều năm qua (khoảng 20,7%). Kim ngạch xuất khẩu cả nước vượt kế hoạch đề ra.
Ba là, thu ngân sách vượt dự toán, cơ cấu thu tiếp tục có tiến bộ, tỷ trọng thu nội địa tăng; tỷ lệ huy động vào ngân sách so với GDP đạt cao, khoảng 25,1%. Huy động vốn cho đầu tư phát triển từ các thành phần kinh tế đạt khá, đặc biệt là huy động vốn đầu tư nước ngoài và vốn của dân cư. Tỷ lệ huy động vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đạt 38,2%.
Bốn là, các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển mạnh. Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp lại theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 theo hướng đa dạng hóa sở hữu với các hình thức cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển đổi đều hoạt động có hiệu quả hơn. Khu vực kinh tế tập thể bước đầu ra khỏi tình trạng khó khăn và có xu hướng phát triển tích cực. Kinh tế cá thể, tư nhân phát triển, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất; đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế - xã hội, góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá, đóng góp ngày càng nhiều vào tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Năm là, một số lĩnh vực xã hội có tiến bộ đáng kể, nhiều địa phương đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở (31/64 tỉnh, thành phố), cơ sở vật chất của nhiều trường học đã được tăng cường thông qua việc thực hiện Chương trình kiên cố hóa trường học; công tác phòng chống dịch bệnh có nhiều tiến bộ, nhất là trong việc phòng chống dịch cúm gia cầm; chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam có tiến bộ và công tác xóa đói giảm nghèo đạt được nhiều kết quả nổi bật, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; phong trào đền ơn, đáp nghĩa, trợ giúp người có khó khăn phát triển sâu rộng trong cả nước.
Sáu là, chính trị, quốc phòng được củng cố, an ninh và trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững.
Ðạt được những kết quả trên do nhiều nguyên nhân, bên cạnh những nguyên nhân khách quan, những nguyên nhân chủ quan nổi lên là:
Trước hết là do sự cố gắng, năng động sáng tạo và chủ động của các ngành, các cấp, cộng đồng các doanh nghiệp, đặc biệt là sự chỉ đạo, điều hành năng động sáng tạo, sâu sát thực tế của các cấp bộ Ðảng và chính quyền địa phương trong việc triển khai thực hiện nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh và tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội cấp bách. Ðáng chú ý là chúng ta đã triển khai thực hiện tốt nhiều giải pháp huy động nội lực, huy động các nguồn vốn trong nước, đồng thời khuyến khích tăng nhanh huy động nguồn vốn nước ngoài cho đầu tư phát triển.
Kết quả đầu tư trong nhiều năm qua, cùng với nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2005 đã làm tăng năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm trong một số ngành, lĩnh vực.
Sự chỉ đạo kiên quyết và tập trung của Chính phủ, bám sát với diễn biến của tình hình, kịp thời đề ra nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong các hoạt động sản xuất kinh doanh và giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách. Hằng tháng đã tổ chức giao ban sản xuất, đầu tư, xuất nhập khẩu để đôn đốc các Bộ, ngành chủ động kịp thời có các giải pháp tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong sản xuất kinh doanh, đầu tư, xuất nhập khẩu. Ðặc biệt khi giá nhiều loại nguyên nhiên vật liệu trên thế giới tăng cao đã có các biện pháp cụ thể để ổn định vĩ mô, không gây biến động lớn về giá cả.
Công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội của các tỉnh, thành phố đã có đóng góp lớn trong sự phát triển chung. Thông qua các hoạt động giám sát Quốc hội đã phát hiện và đề nghị Chính phủ xử lý nhiều vấn đề khó khăn, vướng mắc, nhằm thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã được đề ra tại Nghị quyết của Quốc hội.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức:
Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt mức khá cao, nhưng tốc độ tăng giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp và xây dựng, chưa đạt kế hoạch. Chi phí sản xuất trong một số ngành tuy đã có xu hướng giảm, song vẫn còn ở mức cao; sức cạnh tranh của một số sản phẩm mặc dù có được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước trong khu vực.
Tuy Chính phủ đã có nhiều biện pháp hạn chế tăng giá, nhưng do giá dầu và một số mặt hàng khác trên thị trường thế giới tăng cao, gây áp lực tăng giá nhiều loại hàng hóa thiết yếu trong nước, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao.
Hai là, xuất khẩu phải đối mặt với cạnh tranh. Xuất khẩu đang đứng trước khó khăn, thách thức lớn là chịu sức ép cạnh tranh, đặc biệt là những mặt hàng có thế mạnh của các nước trong khu vực. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã qua chế biến vẫn thấp, tỷ trọng xuất khẩu hàng thô và hàng sơ chế năm 2005 còn chiếm tới 51% trong tổng giá trị xuất khẩu.
Ba là, việc triển khai thực hiện vốn đầu tư của nhà nước ở một số bộ, ngành và địa phương còn chậm và chưa chấp hành tốt các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý đấu thầu. Một số Bộ, ngành, địa phương bố trí vốn đầu tư chưa tập trung, chưa chấp hành triệt để các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý đấu thầu, còn nhiều dự án chưa có đủ thủ tục đầu tư theo quy định. Nhiều tỉnh, thành phố giao khối lượng vốn đầu tư cho các đơn vị thực hiện cao hơn mức vốn kế hoạch đã giao (chủ yếu từ nguồn thu từ giao quyền sử dụng đất, trái phiếu đô thị...), chưa phù hợp với thực tế nguồn thu của các địa phương. Tiến độ giải ngân các dự án sử dụng trái phiếu Chính phủ của các ngành giao thông, thủy lợi, công trái giáo dục và các dự án sử dụng vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước còn chậm.
Bốn là, tình trạng lãng phí, thất thoát, tham nhũng trong việc sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước, trong sử dụng đất đai, trong đầu tư xây dựng cơ bản, sự nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân khi phải tiếp xúc giải quyết công việc với các cơ quan công quyền,... là những tồn tại lớn. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều giải pháp về cơ chế chính sách và tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm,... nhưng tình trạng trên chậm được khắc phục. Nạn tham nhũng gây bất bình lớn trong nhân dân.
Năm là, nhiều vấn đề xã hội rất bức xúc: Thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn vẫn rất gay gắt. Chất lượng nguồn lao động còn nhiều yếu kém (thể lực, trình độ chuyên môn và tác phong công nghiệp); năng suất lao động thấp. Chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Nhiều dịch vụ văn hóa không lành mạnh vẫn có chiều hướng gia tăng. Trật tự kỷ cương xã hội chưa nghiêm. Các tệ nạn xã hội vẫn rất nhức nhối, đặc biệt là tội phạm ma túy gia tăng gây hậu quả xấu về mọi mặt. Tai nạn giao thông vẫn là vấn đề rất bức xúc.
Sáu là, môi trường đô thị, khu công nghiệp, đặc biệt là làng nghề bị ô nhiễm nặng, đa dạng sinh học bị suy giảm. Công tác quản lý tài nguyên còn bất cập, nhất là quản lý tài nguyên khoáng sản và quản lý bảo vệ rừng.
II. Định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006
1. Mục tiêu, nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch năm 2006
Năm 2006, năm đầu thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010; phải tạo ra sự chuyển biến về mọi mặt kinh tế, xã hội và môi trường; chủ động thực hiện từng bước lộ trình hội nhập có kết quả; giải quyết tốt các vấn đề xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội; tạo đà cho việc thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm. Các mục tiêu chủ yếu đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 như sau:
Một là, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Ðẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp. Huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Hai là, chủ động thực hiện lộ trình của Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Khai thác tối đa các lợi thế và hạn chế các mặt bất lợi do mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế phục vụ tăng trưởng. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đã ký kết. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu; thu hút vốn, công nghệ cao từ bên ngoài.
Ba là, huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội. Thu hút mạnh hơn vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư của khu vực dân doanh. Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Bốn là, tạo sự chuyển biến mạnh trong việc công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống nhân dân, nhất là mục tiêu phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội. Tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội bền vững và giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc.
Năm là, đổi mới về tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước. Phát huy dân chủ cơ sở, tăng cường đối thoại giữa cơ quan nhà nước các cấp với cộng đồng doanh nghiệp và dân cư.
Năm nhóm mục tiêu trên được cụ thể hóa thành 8 nhiệm vụ chủ yếu và các chỉ tiêu chủ yếu như sau:
a. Về 8 nhiệm vụ chủ yếu:
(1). Tiếp tục tạo các điều kiện cần thiết để nền kinh tế đáp ứng được yêu cầu của tiến trình hội nhập, phát triển nhanh, ổn định và bền vững, đạt tốc độ tăng trưởng (GDP) 8%. Trong chỉ đạo điều hành phải phấn đấu để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn 8%.
(2). Tăng cường tiềm lực tài chính của đất nước; nâng tỷ lệ tích lũy trong nước, huy động 38,6% GDP cho đầu tư phát triển; thu ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên, chi trả nợ và dành một phần cho đầu tư phát triển. Tăng cường công tác quản lý các nguồn vốn của nhà nước, khắc phục tình trạng dàn trải, thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong đầu tư xây dựng.
Tiếp tục lành mạnh hóa tình hình tiền tệ, ổn định sức mua và giá trị đồng tiền, giảm tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hoạt động dịch vụ của hệ thống ngân hàng.
(3). Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc phát triển doanh nghiệp. Kiên quyết sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục cổ phần hóa các doanh nghiệp có quy mô lớn. Hình thành một số tập đoàn kinh tế. Chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp (thống nhất) sau khi được Quốc hội thông qua.
Tổ chức thực hiện tốt Luật hợp tác xã, có chính sách hỗ trợ đối với hợp tác xã; khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô, số lượng và địa bàn hoạt động, với nhiều hình thức đa dạng đáp ứng nhu cầu chung của xã viên và cộng đồng.
(4). Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển các thị trường mới, có giải pháp tích cực khắc phục tình trạng khó khăn do các nước áp đặt rào cản kỹ thuật. Triển khai thực hiện Luật Ðầu tư chung, kịp thời hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; đẩy mạnh giải ngân và sử dụng hiệu quả vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Thực hiện tốt lộ trình AFTA và các cam kết đa phương và song phương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
(5). Nâng mức hưởng thụ văn hóa, thông tin cho nhân dân, nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Nâng cao chất lượng, hiệu quả và cải thiện các dịch vụ y tế, mức sống và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Tạo chuyển biến rõ nét về phát triển giáo dục và đào tạo; phát triển hệ thống dạy nghề; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý.
Thực hiện có hiệu quả Chiến lược tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo và Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Phát triển mạng lưới an sinh xã hội trợ giúp các đối tượng yếu thế và người nghèo. Tăng cường bảo vệ tài nguyên môi trường.
(6). Ðẩy nhanh tiến trình cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế hành chính, nâng cao đạo đức và năng lực đội ngũ cán bộ công chức và cải cách tài chính công. Tăng cường tính hiệu quả, minh bạch của các chính sách nhà nước. Xử lý nghiêm minh đối với cán bộ công chức vi phạm pháp luật.
(7). Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc; đặc biệt là tình trạng tội phạm, ma túy, HIV/AIDS và tai nạn giao thông.
(8). Tăng cường củng cố quốc phòng an ninh, giữ vững chủ quyền độc lập dân tộc, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đặc biệt tại các khu vực trọng điểm, vùng biên giới và biển đảo, tạo môi trường chính trị ổn định cho phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.
b. Các chỉ tiêu chủ yếu:
(1) Các chỉ tiêu kinh tế: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8% so với năm 2005. GDP theo giá thực tế khoảng 970 nghìn tỷ đồng; GDP bình quân đầu người khoảng 720 USD. Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng khoảng 3,8%; giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp và xây dựng tăng trên 10,2%; giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng trên 8%. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 16,4%. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 375 nghìn tỷ đồng, tăng 17,2% so với năm 2005 và bằng 38,6% GDP. Thu ngân sách nhà nước bằng khoảng 24,1% GDP, tăng 11% so với ước thực hiện năm 2005; tổng chi ngân sách nhà nước tăng 12,2% so với ước thực hiện năm 2005; bội chi ngân sách nhà nước khoảng 5% GDP. Tốc độ tăng giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.
(2) Các chỉ tiêu xã hội: Giảm tỷ lệ sinh trong năm 0,4ọ; quy mô dân số 84,27 triệu người, tăng 1,34% so với năm 2005. Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động, trong đó xuất khẩu lao động và chuyên gia 8 vạn người. Phấn đấu đến cuối năm 2006 có 35 tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; tuyển mới đại học cao đẳng tăng 10%; trung học chuyên nghiệp tăng 15%; đào tạo nghề dài hạn tăng 13%. Số hộ được nghe Ðài Tiếng nói Việt Nam đạt 96,5%; số hộ được xem Truyền hình Việt Nam đạt 92%. Giảm 2% tỷ lệ hộ nghèo so với năm 2005 (theo chuẩn mới (2)). Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống dưới 24%; giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản xuống 78/100 nghìn trẻ em sinh ra sống.
(3) Các chỉ tiêu về tài nguyên môi trường và phát triển bền vững: Nâng tỷ lệ che phủ rừng lên 39%; cung cấp nước sạch cho 67% dân số nông thôn và 75% ở đô thị; thu gom 70% chất thải rắn, xử lý 44% chất thải nguy hại và 72% chất thải y tế, xử lý 40% cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
2. Ðịnh hướng phát triển các ngành và lĩnh vực
(1) Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn: Tiếp tục thực hiện chuyển đổi mạnh cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng ưu tiên ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp. Ðưa tỷ lệ giống mới lên 80%, tăng tỷ trọng lúa thơm chất lượng cao và lúa nếp lên 15 - 20% phù hợp với thị hiếu thị trường trong nước và xuất khẩu. Xây dựng vùng thâm canh lúa lai cao sản, mở rộng vùng lúa chất lượng cao. Phát triển các vùng chăn nuôi tập trung theo hình thức trang trại, nuôi công nghiệp gắn với việc tổ chức các cơ sở giết mổ tập trung, kiểm soát thú y, dịch bệnh.
Tiếp tục trồng và bảo vệ rừng phòng hộ, đặc dụng theo dự án 661; tập trung nguồn lực hỗ trợ trồng rừng sản xuất phục vụ nhu cầu về gỗ cho cho toàn nền kinh tế và cho chế biến xuất khẩu.
Tăng cường công tác dự báo ngư trường để hướng dẫn ngư dân ra khai thác xa bờ, khai thác gắn với hậu cần dịch vụ nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả khai thác. Quy hoạch và xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng các vùng nuôi trồng thủy sản. Phát triển các sản phẩm chủ lực của ngành gắn với lợi thế của từng vùng. Thực hiện đa dạng hóa các đối tượng nuôi, trong đó chú trọng các đối tượng nuôi có hiệu quả kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ và đa dạng hóa các loại hình nuôi trồng như nuôi nước ngọt trong nội địa, nuôi nước lợ ven biển và nuôi biển ở các vùng đảo ngoài biển để tăng nhanh sản lượng nuôi.
Khôi phục và phát triển các làng nghề, khuyến khích phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đa dạng như nông, lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ... đáp ứng nhu cầu tại chỗ và tham gia xuất khẩu. Tạo việc làm ổn định cho gần 300 nghìn lao động chưa có việc làm ở nông thôn.
(2) Phát triển công nghiệp: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao của ngành công nghiệp. Phấn đấu giảm chi phí sản xuất, giảm dần và tiến tới loại bỏ những chi phí bất hợp lý; đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất kinh doanh. Bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất trong nước. Khuyến khích phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường liên kết hợp tác trong ngành, giữa các ngành và giữa các thành phần kinh tế nhằm khai thác tiềm lực sẵn có, tránh lãng phí trong đầu tư.
Rà soát lại tất cả các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, phân ngành công nghiệp đã có để bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với cơ chế thị trường. Nghiên cứu, xây dựng các biện pháp phòng vệ chính đáng đối với hàng hóa sản xuất trong nước phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tổ chức tốt công tác thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, phổ biến kịp thời cho các doanh nghiệp về thủ tục và các nội dung cam kết của Việt Nam đối với WTO, với các nước và khu vực nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa. Mở rộng các mạng lưới đại lý để tăng khả năng giao dịch và lưu thông hàng hóa, tránh độc quyền trong khâu lưu thông như trong thời gian vừa qua.
(3) Phát triển các ngành dịch vụ: Phấn đấu tạo được bước phát triển mạnh của ngành dịch vụ cả về số lượng và chất lượng với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP.
Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có tiềm năng để phát huy ưu thế và khả năng cạnh tranh như du lịch, hàng không, vận tải biển, tài chính, chứng khoán, bảo hiểm và kiểm toán; tiếp tục củng cố và phát triển lành mạnh thị trường bất động sản... Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ. Chú trọng phát triển dịch vụ du lịch chất lượng cao, góp phần tăng thu nhập và thu hút nhiều lao động.
Phát triển nhanh thị trường trong nước, hỗ trợ tiêu thụ hàng hóa sản xuất trong nước, đảm bảo ổn định nguồn hàng góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và giữ vững thị trường xuất khẩu. Ðảm bảo hàng hóa lưu thông thông thoáng, kiềm chế những biến động giá cả bất lợi của những mặt hàng nhạy cảm...
(4) Ðẩy mạnh xuất khẩu, tham gia có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế: Thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu. Tập trung phát triển những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, các chính sách hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu (xúc tiến thương mại, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, phát triển thương hiệu,...). Chú trọng khai thác các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu chưa lớn nhưng đang có tốc độ tăng trưởng cao, không bị hạn chế hoặc chưa bị hạn chế về thị trường, hạn ngạch. Bảo đảm vật tư nguyên liệu cho sản xuất, nhất là nguyên vật liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Tăng cường tuyên truyền cho các doanh nghiệp về các chính sách và các cam kết để chủ động thực hiện cam kết. Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hải quan.
(5) Huy động vốn đầu tư và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội: Huy động các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội vào thực hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng hiệu quả và phát huy được lợi thế của từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm, trên cơ sở đó tăng khả năng cạnh tranh của toàn nền kinh tế.
Khẩn trương hoàn thiện hệ thống văn bản luật pháp, chính sách đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập theo hướng xóa bỏ sự khác biệt về cơ chế chính sách đối với các nhà đầu tư, trước hết là triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp và Luật Ðầu tư áp dụng chung cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân đầu tư vào lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng.
Ðịnh hướng sử dụng vốn đầu tư của nhà nước: Tiếp tục đầu tư cải tạo, nâng cấp và phát triển những trục đường giao thông quan trọng, tuyến giao thông đến các vùng kinh tế trọng điểm; các tuyến giao thông vùng trung du và miền núi phía bắc, khu vực miền trung, Tây Nguyên, nhất là các vùng khó khăn, các trục đường giao thông quan trọng ở đồng bằng sông Cửu Long, các tuyến giao thông nhằm mục tiêu quản lý và bảo vệ biên giới. Tăng cường đầu tư hạ tầng viễn thông, các hạ tầng dịch vụ khác với cơ chế phù hợp.
Bố trí đủ vốn đầu tư cho các dự án, công trình quan trọng quốc gia, các công trình nguồn điện, sản xuất xi-măng, hóa chất cơ bản, phân bón; tăng vốn đầu tư cho các tỉnh miền núi và trung du Bắc Bộ, duyên hải miền trung, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, vùng biên giới khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các tỉnh có diện tích rộng, các tỉnh đông dân, kết cấu hạ tầng còn yếu kém; ưu tiên bố trí vốn cho các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia; thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại vùng Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, chương trình đầu tư thực hiện Nghị quyết 37-NQ/TW và Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị; các Quyết định 120, 134 của Thủ tướng Chính phủ; bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án ODA; các dự án, công trình XDCB sẽ hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2006. Tập trung vốn đầu tư cho các công trình thủy lợi, nhất là các hồ chứa, các công trình đa mục tiêu tại các tỉnh Tây Nguyên, miền trung, đồng bằng sông Cửu Long và các dự án thủy lợi miền núi.
Tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hóa trường lớp học từ nguồn vốn công trái giáo dục. Ðẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án bệnh viện đầu ngành, các bệnh viện khu vực, các trung tâm y tế chuyên sâu; tăng đầu tư cho các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện. Bố trí đủ vốn đầu tư cho các lĩnh vực khoa học công nghệ theo Nghị quyết Trung ương 2, tập trung vốn cho hệ thống các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, các Viện nghiên cứu đầu ngành, các Khu công nghệ cao, công nghệ phần mềm, các chương trình kinh tế - kỹ thuật.
(6) Giáo dục - đào tạo: Phát triển quy mô giáo dục phổ thông phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội, củng cố kết quả xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy mạnh phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Ðẩy mạnh thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông ở những nơi có điều kiện. Tiếp tục thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy ở bậc giáo dục phổ thông, củng cố kết quả dạy và học đạt được đối với bậc tiểu học, bậc trung học cơ sở; chuẩn bị các điều kiện triển khai đổi mới ở các lớp tiếp theo cho năm học 2006-2007 để đến năm học 2007-2008 triển khai đại trà ở tất cả các lớp học phổ thông...
Khuyến khích mở rộng các cơ sở đào tạo đại học ngoài công lập. Phát triển hệ thống trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, chú trọng phát triển các trường địa phương để gắn đào tạo với sử dụng nhân lực tại chỗ. Ðẩy nhanh tiến độ xây dựng nhằm hoàn thành mục tiêu chương trình kiên cố hóa trường lớp học trong quý II năm 2006. Giải quyết chỗ ở cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trước mắt tập trung vào các trường sư phạm, trường trọng điểm và trường ở khu vực kinh tế xã hội khó khăn.
Ðẩy mạnh xã hội hóa giáo dục: Phấn đấu hoàn thành việc chuyển 6 trường đại học, cao đẳng bán công hiện có sang tư thục. Huy động các nguồn lực xã hội cùng phát triển giáo dục đào tạo. Xây dựng chế độ học phí mới, bảo đảm huy động nguồn lực xã hội, đồng thời có chính sách hỗ trợ cho các đối tượng khó khăn.
(7) Khoa học và công nghệ: Ðẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp; tạo bước đột phá về giống cây, con có năng suất và giá trị kinh tế cao phục vụ yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển nông nghiệp và nông thôn. Ðẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, trong đó chú trọng ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hóa và công nghệ vật liệu mới. Ưu tiên thích đáng cho các nhiệm vụ khoa học công nghệ có định hướng tìm kiếm bí quyết công nghệ (ươm tạo công nghệ) và sớm chuyển giao công nghệ vào sản xuất kinh doanh (ươm tạo doanh nghiệp và đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp).
Nghiên cứu, đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ nhằm phát huy mạnh mẽ nội lực khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ, xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
(8) Tài nguyên môi trường và phát triển bền vững: Xây dựng quy hoạch, kế hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường. Bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình và các dự án phát triển của các ngành, địa phương.
(Còn tiếp)
Nguồn: http://www.nhandan.com.vn, ngày 15/10/2005
