
Doanh nghiệp phá sản không thể... phá sản? (15/12)
06/08/2010 - 276 Lượt xem
Bởi những đối tượng luật áp dụng luôn "xa lánh" nó và ngay cả những người sử dụng luật để xét xử cũng quá bất mãn đến mức lãnh đạo các tòa án ở Tp.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng đã phải kêu cứu...
Luật Phá sản được xem như "phát súng ân huệ" đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, nó giúp những kẻ thua cuộc rút khỏi cuộc chơi một cách "thanh thản" và tránh "sát thương" cho những nạn nhân của nó chính là các chủ nợ và người lao động.
Doanh nghiệp xa lánh
Trong vòng 10 năm từ 1994 đến 2003, toàn ngành tòa án thụ lý được 151 đơn yêu cầu phá sản so với hàng trăm ngàn doanh nghiệp mới được thành lập.
Quả là con số đẹp như mơ khi mà số doanh nghiệp phá sản chẳng đáng gì so với tổng số doanh nghiệp thành lập. Tuy nhiên, sự thật không phải như thế, mà là vì Luật Phá sản kém thực thi nên chẳng doanh nghiệp phá sản nào muốn xin được "chết". Thêm nữa, trong số 151 hồ sơ xin phá sản thì chỉ có 46 vụ phá sản thành công (?).
Luật Phá sản 2004 chẳng khá gì hơn khi đã có hai năm tồn tại. Toà Kinh tế thuộc Tòa án Nhân dân Tp.HCM cho biết cho đến nay cơ quan xét xử này mới thụ lý được 22 đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các doanh nghiệp trong nước, chỉ bao gồm Nhà nước và tư nhân.
Tuy nhiên, tòa án này chỉ mới giải quyết yêu cầu "được chết" cho hai doanh nghiệp trong khi số còn lại đang trong thời gian xem xét (!).
Cơ quan phụ trách phá sản của Tòa án Hà Nội cũng chẳng khá gì hơn và ngồi chơi xơi nước thường xuyên. Từ năm 1994 đến 2004, tòa này thụ lý và giải quyết được 3 vụ phá sản doanh nghiệp, và cũng cùng con số này trong năm 2005. Năm nay, tòa Hà Nội "làm ăn khấm khá" hơn đôi chút, được 8 vụ.
So với Luật Phá sản 1994, Luật Phá sản 2004 đã mở rộng thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp và hợp tác xã, là hai đối tượng chính của Luật. Theo đó, thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản được qui định ở cả hai cấp: cấp tỉnh, thành đối với doanh nghiệp và hợp tác xã đăng ký kinh doanh ở các cấp và cấp quận huyện chỉ với đối tượng đăng ký kinh doanh ở địa phương.
Để tiếp nhận yêu cầu phá sản của doanh nghiệp, Luật Phá sản 2004 thống nhất tổ quản lý và thanh lý tài sản thành một thay vì tách biệt như Luật 1994. Luật Phá sản 2004 cũng có những thay đổi so với 1994 liên quan đến qui định về thời điểm ngừng thanh toán nợ, thi hành án dân sự, thứ tự phân chia tài sản...
Tuy nhiên những cái mới của Luật 2004 không thay đổi kết quả trên.
Nhiều qui định không phù hợp thực tế
Theo ông Phạm Xuân Thọ, Chánh tòa Kinh tế Tp.HCM, có hàng tá lý do dẫn đến kết quả không mong muốn mà Luật Phá sản đã tạo ra.
Thứ nhất, đó là chuyện thời gian mở thủ tục thụ lý. Luật qui định thời hạn để tòa ra quyết định mở thủ tục là 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế theo ông Thọ, thẩm phán chỉ có 20 ngày để quyết định có mở thủ tục thụ lý phá sản hay không vì hồ sơ phải đi qua các bộ phận thụ lý theo luật định.
Với khoảng thời gian này, ông Chánh tòa Kinh tế Tp.HCM cho rằng quá ít để có thể xem xét bao gồm cả việc triệu tập doanh nghiệp yêu cầu phá sản và những cá nhân và tổ chức người liên quan, nghiên cứu các báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp, những biện pháp khắc phục nhưng không thoát khỏi sự phá sản...
Theo Luật 2004, các doanh nghiệp xin phá sản phải lập hội nghị chủ nợ để trình phương án khắc phục và hội nghị này phải ra nghị quyết. Nghị quyết của hội nghị chủ nợ sẽ là căn cứ để thẩm phán ra quyết định thanh lý tài sản. Tuy nhiên, với việc trên thực tế các doanh nghiệp không lập hội nghị chủ nợ, thì theo ông Thọ, dựa vào đâu để thẩm phán ra phán quyết thanh lý tài sản, một quyết định cần thiết của thủ tục phá sản.
Nhưng khi có thể ra phán quyết thanh lý tài sản, thẩm phán cũng khó ra quyết định phá sản đối với doanh nghiệp. Bởi theo Luật Phá sản 2004, Tổ quản lý và thanh lý tài sản cùng với thẩm phám phải có kết luận là doanh nghiệp đã hết tài sản cũng như quyền sở hữu tài sản đó trước khi ra quyết định phá sản mà điều này không dễ thực hiện.
Ông Thọ cho biết trên sổ sách tài sản bằng hiện vật vẫn tồn tại như hàng hóa, vật tư, máy móc, thiết bị... nhưng không còn giá trị sử dụng và cũng không có giá trị thương mại. Còn tài sản là các khoản phải thu cũng vậy. Các khoản thu chính là nợ mà doanh nghiệp cần phải thu hồi, tuy nhiên trên thực tế chuyện này không dễ. Trên sổ sách tài sản hiện vật và tài sản là khoản nợ vẫn tồn tại, do đó thẩm phán không thể ra quyết định phá sản.
Trong khi đó, ông Phạm Tuấn Anh, Chánh tòa Kinh tế Hà Nội, cho rằng qui định về phá sản của doanh nghiệp quá rộng, không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản. Theo ông, qui định quá rộng này khó xác định chính xác như thế nào là doanh nghiệp phá sản vì nợ đến hạn chưa thanh toán không đủ điều kiện để phản ánh việc doanh nghiệp có bị phá sản.
Thêm vào đó, khi liệt doanh nghiệp vào tình trạng phá sản không thực tế như luật định như vậy sẽ tạo cơ hội cho những đối thủ cạnh tranh gây khó khăn cho doanh nghiệp. Chánh tòa Kinh tế Hà Nội nói rằng đã có nhiều trường hợp như vậy đã xảy ra ở khu vực Hà Nội. Các chủ nợ thay vì khởi kiện vụ án kinh tế đòi nợ, họ lại làm đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản để đòi nợ.
Ông cho biết thêm, theo luật định, tòa không thể từ chối xem xét những loại đơn như vậy mặc dù đó là điều không thực tế.
Chưa hết chuyện rắc rối đối với thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản mà tòa kinh tế không biết giải quyết như thế nào trong khi Luật Phá sản lại không qui định. Tòa Kinh tế Hà Nội đang gặp phải trường hợp như thế với Công ty May xuất khẩu Thành Công. Công ty này không chỉ có tài sản ở Hà Nội mà cả Tây Ninh và Tp.HCM. Tổ quản lý và thanh toán tài sản kiểm kê tài sản ở các khu vực xa cơ quan thụ lý không biết chuyển cho cơ quan nào quản lý trong thời gian thụ lý nếu không thì việc hư hao, thất thoát không thể tránh khỏi.
Với Luật Phá sản hiện hành, lãnh đạo các tòa kinh tế cho rằng nhiều doanh nghiệp phá sản sẽ không thể phá sản, vấn đề cần thiết trong nền kinh tế, giống như nhiều xác chết không được chôn...
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam
