VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Kinh tế xanh

Hành trình hướng đến giảm thiểu chất thải, thực hành tuần hoàn

06/06/2024 - 12 Lượt xem

Doanh nghiệp Việt chủ động chuyển đổi xanh trong giảm thiểu rác thải, thực hành tuần hoàn...

Việt Nam là một trong 5 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu. Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu của Việt Nam đến năm 2050 do Chính phủ ban hành, đặt mục tiêu đến năm 2030, tổng lượng phát thải khí nhà kính quốc gia sẽ giảm 43,5%.

Năm lĩnh vực bao gồm năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, rác thải và công nghiệp sẽ phải cắt giảm mạnh lượng khí thải carbon trong quá trình sản xuất. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam đang tích cực chuyển đổi xanh trong việc giảm thiểu chất thải, thực hành tuần hoàn nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh của nền kinh tế.

KHÔNG CHỈ LÀ XU HƯỚNG, MÀ CÒN LÀ LỰA CHỌN

Kiên định theo đuổi định hướng tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo tồn môi trường, Vinamilk xác định trách nhiệm của doanh nghiệp không chỉ là tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật về quản lý chất thải mà còn chú trọng đến việc sử dụng tối ưu tài nguyên, nâng cao mức độ tái sử dụng, tái chế chất thải từ khâu thiết kế sản phẩm đến khâu phân phối và tiêu thụ.

Vinamilk tập trung thu gom, phân loại rác thải tại nguồn, tích cực đổi mới dây chuyền sản xuất, đầu tư công nghệ thân thiện với môi trường, xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn, từ đó góp phần giảm phát thải và hiệu ứng nhà kính. Tại các trang trại chăn nuôi bò sữa, việc xử lý chất thải luôn được ưu tiên hàng đầu để bảo vệ môi trường.

“Tại Vinamilk, kinh tế tuần hoàn gắn liền với mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, trong đó nổi bật là sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn tài nguyên, giảm thiểu và tiến tới loại bỏ các loại rác thải gây ô nhiễm môi trường”, một đại diện của Vinamilk chia sẻ với VnEconomy.

“Vinamilk đã nỗ lực thực hiện nhiều hoạt động chuyển đổi nền kinh tế tuyến tính sang nền kinh tế tuần hoàn, trong đó phải kể đến nỗ lực chuyển đổi hóa chất thành tài nguyên, giảm tiêu hao nguyên liệu đầu vào và sử dụng các vật liệu thân thiện với môi trường, có thể tái sử dụng, tái chế, dễ phân hủy nhằm giảm thiểu tác động xấu đến môi trường xung quanh."

Cũng là doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, PAN Group đã cam kết và đầu tư triển khai các giải pháp nông nghiệp phát thải thấp do yêu cầu thực tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.

Hiện nay, ngành nông nghiệp chiếm 19% tổng lượng phát thải ở Việt Nam và đứng thứ hai trong danh sách các ngành có lượng phát thải lớn sau ngành điện, năng lượng.

Trong Quyết định 01/2022/QĐ-TTg của Chính phủ về Ban hành Danh mục  lĩnh vực cơ sở phát thải khí nhà kính phải kiểm kê khí nhà kính cũng đã đưa ra các yêu cầu đối với các doanh nghiệp về kiểm kê và báo cáo lượng phát thải khí nhà kính.

Cũng theo theo Quyết định 01 và danh sách cập nhật, có 2.893 cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính trong lộ trình giảm phát thải từ nay đến năm 2030. Có thể thấy rằng, Chính phủ đã đưa ra những cam kết quốc gia và khuyến khích các doanh nghiệp có những đóng góp quan trọng hơn nữa trong việc thực hiện.

“Môi trường kinh doanh ngày càng đòi hỏi phải tuân thủ chặt chẽ hơn các tiêu chuẩn môi trường và quản lý tài nguyên," ông Nguyễn Trung Anh, Giám đốc Phát triển bền vững và Đổi mới sáng tạo Tập đoàn PAN cho biết. "Việc triển khai mô hình nông nghiệp phát thải thấp có thể giúp PAN tuân thủ các quy định và yêu cầu từ Chính phủ.”

Ngoài các yêu cầu pháp lý, không thể bỏ qua áp lực từ khách hàng quốc tế. Điều này đúng ở các thị trường khó tính như EU, nơi khách hàng yêu cầu thông tin về "dấu chân carbon" của các sản phẩm thủy sản.

Nhận thức và nâng cao tầm quan trọng của khách hàng với việc công bố "dấu chân carbon" ngày càng được nâng cao, thậm chí họ còn đưa ra các yêu cầu cụ thể như kiểm soát sản lượng đánh bắt và khuyến khích công bố "dấu chân carbon" trên sản phẩm.

EU cũng đã phê duyệt Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) cho một số mặt hàng đặc thù như thép, xi măng, hóa chất, phân bón... và xu hướng sẽ tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực khác. Cơ chế CBAM sẽ áp dụng giá carbon đối với hàng hóa nhập khẩu dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quá trình sản xuất và yêu cầu các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng trên phải tiến hành kiểm kê khí nhà kính.

"Do đó, tuần hoàn không chỉ giúp tiết kiệm chi phí sản xuất mà còn giảm phát thải và giảm tác động tiêu cực đến môi trường; Tăng doanh thu và lợi nhuận; Thâm nhập và mở rộng thị trường cao cấp; và Cơ hội nhận đầu tư”, ông Trung Anh cho biết thêm.

Xuyên suốt hành trình phát triển, bên cạnh sứ mệnh mang đến những ‘phương tiện xanh’ cho tương lai bền vững, VinFast còn rất chú trọng đến việc quản lý hiệu quả và giảm thiểu chất thải hướng tới sản xuất theo mô hình kinh tế tuần hoàn.

VinFast triển khai các chương trình giảm thiểu rác thải với các ưu tiên: Giảm rác thải tại nguồn - Tái sử dụng - Tái chế rác thải. Tỷ lệ rác tái chế của công ty ngày càng tăng qua từng năm. Cụ thể năm 2021, 69% lượng rác thải phát sinh được tái chế, năm 2022 và 2023 tỷ lệ này lần lượt là 81% và 86%. Ngoài đầu tư dây chuyền sản xuất tiên tiến, công ty còn tiết kiệm tối đa lượng nước cho sản xuất.

Đại diện Vinfast chia sẻ với VnEconomy rằng việc chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn là tất yếu đối với tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Một trong những động lực chính để VinFast thực hiện các hoạt động giảm thiểu chất thải hướng tới mô hình kinh tế tuần hoàn là nhận thức ngày càng tăng về tầm quan trọng của tính bền vững trong hoạt động kinh doanh.

Trong bối cảnh nhu cầu về nguyên liệu ngày càng tăng trong khi các nguồn tài nguyên này ngày càng cạn kiệt, đặc biệt là các nguồn tài nguyên không tái tạo như khoáng sản, VinFast đã lựa chọn trở thành mắt xích tham gia nền kinh tế tuần hoàn.

“Với quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, những nỗ lực chủ động giảm thiểu chất thải và hướng tới mô hình kinh tế tuần hoàn có thể tạo ra sự khác biệt, mang lại cho VinFast lợi thế cạnh tranh," đại diện của Vinfast nhấn mạnh. “Nhìn chung, quyết định bắt tay vào thực hiện các hoạt động giảm thiểu chất thải theo hướng mô hình kinh tế tuần hoàn được thúc đẩy bởi sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm cả việc công nhận tính bền vững của VinFast là chìa khóa trong việc tạo ra giá trị lâu dài của chúng tôi nhằm duy trì niềm tin của các bên liên quan.”

Để tăng cường quản lý, tái chế và giảm thiểu rác thải nhựa gây ô nhiễm môi trường và đại dương, công ty nhựa tái chế Duy Tân (DUYTAN Recycling) đã đầu tư xây dựng nhà máy cung cấp sản phẩm nhựa tái chế chất lượng cao với công nghệ ‘Bottle- to-Bottle’.

Theo đó, mỗi chai nhựa đã qua sử dụng sẽ được tái chế thành các viên nhựa, tạo ra một chu trình mới, từ đó giúp giảm thiểu việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Ông Lê Anh, Giám đốc Phát triển bền vững của DUYTAN Recycling khẳng định việc thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển dài hạn của công ty.

MỘT HÀNH TRÌNH DÀI ĐỂ ĐẠT TỚI TUẦN HOÀN

Bên cạnh những cơ hội và lợi ích, việc thực hiện các giải pháp giảm thiểu chất thải theo hướng kinh tế tuần hoàn cũng phải đối mặt với nhiều thách thức cho doanh nghiệp.

Những thách thức mà DUYTAN Recycling hiện đang phải đối mặt là thực trạng thu gom và phân loại rác thải ở Việt Nam hiện nay. Hầu hết rác thải không được phân loại tốt tại nguồn. Hoạt động thu gom, tái chế còn nhỏ lẻ, tự phát, chủ yếu thực hiện thủ công ở các làng nghề, chưa tuân thủ các quy định về môi trường. Bao bì vẫn chưa đạt tiêu chuẩn và chưa thuận tiện cho việc tái chế.

Trong khi đó, đại diện của nhiều doanh nghiệp cho biết chi phí đầu tư cho các công nghệ mới để tái chế, tái sử dụng hiệu quả nguyên liệu trong sản xuất ô tô là khá cao. “Chuyển đổi từ tư duy ‘sản xuất-tiêu thụ-tiêu hủy’ sang ‘tái sử dụng-tái chế-tái tạo’ là một quá trình lâu dài đòi hỏi sự nỗ lực của cả VinFast và người tiêu dùng," đại diện của Vinfast cho biết thêm. "Ở Việt Nam, mặc dù đã có khung pháp lý cho phát triển nền kinh tế tuần hoàn nhưng các chính sách mới chỉ mới bắt đầu tập trung vào tăng trưởng xanh và phát triển bền vững."

Cùng quan điểm, ông Trung Anh cũng cho rằng việc thực hiện công nghệ và quy trình sản xuất bền vững thường đòi hỏi một số chi phí đầu tư lớn, từ nâng cấp trang thiết bị đến đào tạo nguồn nhân lực. "Doanh nghiệp cần đảm bảo có đủ nguồn tài chính để đáp ứng các chi phí này trong giai đoạn đầu," ông nhấn mạnh.

Các quy định pháp lý và quy trình thẩm định cũng tạo ra nhiều thách thức cho PAN Group. Chẳng hạn, để phân hữu cơ từ bùn cá tra được công nhận, doanh nghiệp sẽ phải xây dựng đề án nghiên cứu khoa học và tiến hành nhiều thử nghiệm để chứng minh tính hiệu quả và an toàn sinh học. Mặc dù kết quả của dự án tốt nhưng vì liên quan đến yếu tố môi trường nên doanh nghiệp vẫn còn phải qua chặng đường dài mới được cơ quan có thẩm quyền đánh giá do có những quy định chặt chẽ về quản lý, vận chuyển chất thải.

Bên cạnh đó, thành công trong việc thực hiện kế hoạch bền vững đòi hỏi phải thay đổi cách làm việc và suy nghĩ của toàn bộ tổ chức. Điều này có thể gây khó khăn cho việc thay đổi văn hóa tổ chức. Ông Trung Anh cho biết các mô hình sản xuất bền vững thường phải đối mặt với những rủi ro, bất ổn mới như biến đổi khí hậu, thay đổi chính trị và thay đổi chính sách. Doanh nghiệp cần có kế hoạch quản lý rủi ro và đảm bảo sự ổn định trong hoạt động kinh doanh.

Theo Tiến sĩ Nam Nguyễn, Giám đốc điều hành công ty tư vấn Klinova, hiện nay, tại thị trường Việt Nam, xu hướng đầu tư tập trung vào Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG) được coi là tụt hậu so với xu hướng toàn cầu.

Những thách thức mà doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt trong việc thực hiện ESG bao gồm: khả năng tiếp cận thông tin hạn chế, không đủ hỗ trợ về nguồn lực và thiếu định hướng thị trường. Trong đó khan hiếm thông tin là vấn đề chính mà các doanh nghiệp này phải đối mặt. "Việc thực hiện ESG là một cam kết và là một quá trình lâu dài được thực hiện qua từng năm," Tiến sĩ Nam nhấn mạnh.

NHỮNG HỖ TRỢ TỪ CHÍNH PHỦ

Từ góc nhìn phía doanh nghiệp, đại diện Vinfast tin rằng Chính phủ Việt Nam đã và đang hỗ trợ tích cực để thúc đẩy các doanh nghiệp giảm thiểu chất thải và hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.

Ví dụ điển hình bao gồm: Ban hành các chính sách và quy định nhằm giảm thiểu chất thải và thúc đẩy tái chế, yêu cầu nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm xử lý sản phẩm của mình khi hết vòng đời; Khuyến khích tài chính bằng cách giảm thuế hoặc trợ cấp, cho các doanh nghiệp áp dụng các biện pháp thân thiện với môi trường hoặc đầu tư vào công nghệ thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn; Xây dựng năng lực và giáo dục nhằm nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong việc áp dụng các thực hành kinh tế tuần hoàn; Hỗ trợ Nghiên cứu và Phát triển các giải pháp giảm thiểu chất thải và kinh tế tuần hoàn; Thúc đẩy tiêu dùng bền vững.

“Các chính sách, hỗ trợ từ Chính phủ cùng với quyết tâm của doanh nghiệp sẽ sớm thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn hoạt động ổn định”, đại diện nói thêm," vị đại diện Vinfast nhấn mạnh.

Đồng quan điểm với đại diện Vinfast, ông Lê Anh cũng cho rằng hiện nay Chính phủ cũng đã có động thái tích cực là khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tổ chức thu gom, tái chế. Bằng chứng nằm ở việc thực hiện công cụ chính sách Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), có hiệu lực vào năm 2024. Chính sách này yêu cầu các doanh nghiệp chịu trách nhiệm xử lý và tái chế chất thải phát sinh từ quá trình sản xuất của mình. Chính sách được kỳ vọng mang lại kết quả đó là tăng tỷ lệ tái chế và thiết lập mô hình kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.

“Tuy nhiên, để thực hiện thành công chính sách EPR ở Việt Nam cần có sự nỗ lực chung của chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng”, ông Lê Anh nói thêm. “Cần phải hợp lý hóa các quy định và nâng cao nhận thức về lợi ích của các sản phẩm thân thiện với môi trường và bảo vệ môi trường cho cả thế hệ hiện tại và tương lai."

Ngoài ra, để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư tập trung vào ESG, Tiến sĩ Nam khuyến nghị Chính phủ cần triển khai các chính sách, biện pháp hỗ trợ thiết thực như sau: Thiết lập kênh chính thức cung cấp thông tin về thực hành ESG cho đầu tư, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận và thực hiện theo khuyến nghị của Chính phủ; Phổ biến thông tin tới công chúng và người tiêu dùng về lợi ích lâu dài về môi trường và xã hội của các sản phẩm do nhà sản xuất thực hành ESG cung cấp; Hướng dẫn các doanh nghiệp thực hành ESG trong việc xác định thị trường xuất khẩu có nhu cầu đối với sản phẩm do nhà sản xuất tuân thủ ESG cung cấp.

Nguồn: vneconomy.vn