
Tổng hợp
Báo cáo của Chính phủ về kinh tế- xã hội năm 2004
06/08/2010 - 335 Lượt xem
Về những thành tựu nổi bật trong năm 2004, Thủ tướng Phan Văn Khải cho rằng tình hình phát triển ở nhiều ngành có tiến bộ. Giá trị sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng khá, đạt 15,6%, trong đó tốc độ giá trị tăng thêm đạt 10,6%, cao nhất từ nhiều năm nay. Các ngành dịch vụ phát triển khá với chất lượng dịch vụ cao hơn, thị trường trong nước được mở rộng với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 17,7%. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về thị trường giá cả nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt 25 tỷ USD, tăng 24%, cao gấp hai lần mức kế hoạch đề ra. Đây là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu đạt mức bình quân trên 2 tỷ USD/tháng; có 6 mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD.
Cơ cấu kinh tế nói chung cũng như cơ cấu nội bộ từng ngành tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, trong đó, công nghiệp đang đi vào hoạt động có chất lượng và hiệu quả hơn; đặc biệt cơ cấu các ngành dịch vụ bắt đầu thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ có giá trị cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
Các thành phần kinh tế tích cực đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân có mức tăng trưởng rất cao, góp phần chủ yếu vào giải quyết việc làm cho người lao động.
Nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển đã đa dạng hơn, phát huy nội lực tốt hơn, nguồn vốn trong nước đạt khá, nhất là nguồn vốn đầu tư của dân. Tỷ lệ vốn huy động trong nước so với tổng nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội luôn đạt ở mức cao trong nhiều năm liền với khoảng 72%.
Một số lĩnh vực xã hội, văn hóa có chuyển biến tích cực, nhất là những vùng nông thôn, vùng sâu-xa, vùng dân tộc thiểu số. Công tác xóa đói giảm nghèo có nhiều tiến bộ, công tác chăm sóc sức khoẻ đã được chú trọng.
Quốc phòng được củng cố, an ninh và trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững; giải quyết tốt những diễn biến phức tạp tại các điểm nóng, kiềm chế có hiệu quả những bất ổn về an ninh chính trị tại khu vực biên giới.
Đặc biệt, việc tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao Á-Âu lần thứ 5 đã mở ra giai đoạn phát triển mới thúc đẩy sự hợp tác giữa hai châu lục Á-Âu và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Báo cáo cũng nêu rõ: trong năm 2004, Chính phủ và các ngành các cấp đã có sự chuyển biến rõ nét trong công tác điều hành về kinh tế-xã hội. Chính phủ đã bám sát thực tiễn đưa ra những định hướng đúng về phát triển kinh tế-xã hội phù hợp với tình hình và điều kiện đất nước; đồng thời chỉ đạo sát sao việc thực hiện, tăng cường đối thoại với doanh nghiệp, tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh tế-xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu này, Chính phủ cũng nhận thấy tình hình kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn thách thức.
Tăng trưởng kinh tế mới đạt ở mức thấp của mục tiêu đề ra, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng chưa có chuyển biến rõ nét, cơ cấu kinh tế chưa có bước chuyển dịch mạnh theo hướng hiện đại hóa. Việc triển khai thực hiện vốn đầu tư phát triển còn chậm, tỷ lệ giải ngân đạt thấp. Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao so với nhiều năm trước đã tác động xấu đến nhiều ngành sản xuất và đời sống nhân dân. Công tác xã hội hoá các lĩnh vực xã hội còn chậm và còn nhiều lúng túng, chưa có các đề án và kế hoạch triển khai cụ thể. Việc cải cách hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Nhiều vấn đề xã hội còn rất bức xúc, nhất là tình trạng nghiện hút, ma tuý, cờ bạc, mại dâm chưa được ngăn chặn đẩy lùi; việc kiềm chế gia tăng tiến tới đẩy lùi tai nạn giao thông chưa đạt được kết quả vững chắc.
Chính phủ cũng thẳng thắn thừa nhận rằng những yếu tố chủ quan là nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn, yếu kém nêu trên. Việc chậm chễ ban hành các văn bản hướng dẫn đã dẫn đến tình trạng một số cơ chế, chính sách còn thiếu đồng bộ. Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, một số cơ quan nhà nước ở các cấp hoạt động thiếu hiệu quả, vì vậy chưa ứng phó kịp thời với các biến động xảy ra như biến động giá cả, thị trường. Bên cạnh đó, tiến bộ trong cải cách hành chính còn hạn chế, chưa tạo bước đột phá mới, vẫn còn một bộ phận ccán bộ công chức thiếu trách nhiệm, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp.
Ngoài ra, một số nguyên nhân khách quan như dịch cúm gia cầm lan rộng, giá cả một số mặt hàng tăng cao đã tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến kết quả thực hiện các nhiệm vụ đề ra, làm giảm khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
Báo cáo của Chính phủ đã nêu lên định hướng phát triển kinh tế-xã hội năm 2005, trong đó tập trung thực hiện 5 nhóm mục tiêu chính là Phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững; Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hịên mạnh mẽ các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đi đôi với khai thác tốt thị trường trong nước; Đổi mới mạnh hơn nữa các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá, nâng cao chất lượng; Tiếp tục đổi mới về tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, chống tham những, lãng phí; Tập trung cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh, triển khai mạnh mẽ tiến trình sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp quốc doanh, vận hành thị trường tài chính, bất động sản để tạo năng lực phát triển mạnh trong nền kinh tế.
Báo cáo đã nêu lên những chỉ tiêu cụ thể phải đạt được trong năm 2005 là:
Về chỉ tiêu kinh tế:
-
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8-8,5% so với năm 2004
-
Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm, ngư nghịêp tăng 3,4-3,8%
-
Giá trị tăng thêm của ngành công nghịêp và xây dựng tăng 10,5-11% (giá trị sản xuất tăng 15,5-16%).
-
Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng 7,7-8,2%
-
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 14-16%
-
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 295-300 tỷ đồng, tăng 17,5-19,5% so với năm 2004, bằng 36,5% GDP.
-
Tổng thu ngân sách nhà nước 179,7 nghìn tỷ đồng, tăng 7,7% so với ước thực hiện của năm 2004; tổng chi ngân sách nhà nước 226,45 nghìn tỷ đồng, tăng 9,9%; bội chi ngân sách nhà nước khoảng 5% GDP.
Về chỉ tiêu xã hội:
-
Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi đạt 80%.
-
Tuyển mới đại học, cao đẳng tăng trên 8%, trung học chuyên nghịêp tăng 15%, đào tạo nghề tăng 12%.
-
Giảm tỷ lệ sinh bình quân trong năm 0,04%, qui mô dân số 83,2 triệu người, tăng 1,42%.
-
Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động, trong đó xuất khẩu lao động 7 vạn người. Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5,5%.
-
Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 7%.
-
Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống còn 24%.
-
62% dân số ở nông thôn được cung cấp nước sạch.
Báo cáo nêu rõ định hướng phát triển ngành và lĩnh vực bao gồm: Phát triển nông nghịêp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra vùng sản xuất hàng hóa, tập trung, chuyên canh, thâm canh có năng suất, chất lượng cao, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Tiếp tục qui hoạch vùng nguyên liệu cho các nhà máy; tích cực tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm; tiếp tục rà soát, điều chỉnh qui hoạch vùng nuôi trồng, khai thác thuỷ sản an toàn, chống dịch bệnh; tiếp tục đổi mới quản lý ngành lâm nghiệp.
Về công nghiệp, tập trung phát triển những sản phẩm có thị trường, có khả năng cạnh tranh cao để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, tăng kim ngạch xuất khẩu. Phát triển nhanh các sản phẩm công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghiệp phục vụ nông thôn, nhất là công nghịêp chế biến. Phát triển đồng bộ hệ thống dịch vụ tài chính, tín dụng, bảo hiểm, cơ sở hạ tầng cho phát triển công nghịêp, khu chế xuất và khu công nghệ cao hiện có.
Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có tiềm năng để phát huy ưu thế và khả năng cạnh tranh như du lịch, hàng không, vận tải biển, tài chính, ngân hàng. Nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ. Đảm bảo quan hệ cung-cầu các hàng hoá thiết yếu. Phát triển thị trường trong nước theo hướng đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng của sản xuất và tiêu dùng, hỗ trợ phát triển xuất khẩu.
Đẩy mạnh xuất khẩu, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, cần duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tập trung điều hành để tăng tối đa kim ngạch các nhóm hàng xuất khẩu mũi nhọn là thuỷ sản, dệt may, giày dép, dầu thô và các sản phẩm gỗ; phát triển các mặt hàng mới có nhiều khả năng cạnh tranh và các mặt hàng có cơ hội tăng sản lượng và thị phần. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá chế biến sâu và có hàm lượng kỹ thuật cao.
Về mục tiêu giáo dục và đào tạo, báo cáo đề ra nhiệm vụ phát triển quy mô giáo dục phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội, củng cố kết quả thực hiện xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, tiếp tục đẩy mạnh phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tập trung hỗ trợ vịêc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của các ngành sản xuất và dịch vụ nhằm nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh, nâng sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Báo cáo cũng nêu lên định hưóng phát triển các lĩnh vực quản lý tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững; về giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo; về công tác quản lý trong văn hoá, thông tin, phát thanh, truyền hình, thể dục-thể thao; công tác ổn định và nâng cao đời sống đồng bào dân tộc ít người; công tác phòng chống tệ nạn xã hội và định hướng phát triển kinh tế-xã hội các vùng.
Chính phủ cũng đã nêu lên một số cơ chế chính sách chủ yếu để hoàn thành việc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội năm 2005. Trước hết là cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thúc đẩy các đơn vị kinh tế nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đồng thời nghiên cứu sửa đổi, ban hành các văn bản để tạo điều kiện thông thoáng cho các tổ chức, cá nhân thực sự bình đẳng trong quá trình tiếp cận với các yếu tố phục vụ cho sản xuất kinh doanh như đất đai, vốn, lao động, khoa học công nghệ.
Tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế; nâng cao hiệu quả đầu tư, chống thất thoát và lãng phí; nâng cao qui hoạch phát triển; đẩy mạnh huy động vốn đầu tư của tất cả các thành phần kinh tế. Sớm ban hành một số chính sách mới tạo môi trường thông thoáng để kinh tế tư nhân phát triển mạnh, không hạn chế về qui mô; Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin về doanh nghịêp cho ngân hàng, phục vụ nghiệp vụ cho vay của ngân hàng; tiếp tục cải tiến và công khai hoá các qui trình, thủ tục hành chính.
Đẩy mạnh tiến trình sắp xếp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước lớn cần cổ phần hoá, Đẩy mạnh xuất khẩu và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh xã hội hoá trong một số lĩnh vực xoá đói, giảm nghèo; tăng cường tạo việc làm, nhất là đối với khu vực nông thôn, chú trọng công tác xuất khẩu lao động; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển y tế, phát thanh-truyền hình, thong tin đại chúng, bảo tồn và tôn tạo di tích lịch sử.
Hỗ trợ các địa phương đầu tư mở rộng các trung tâm cai nghiện ma tuý, tăng cường kiểm soát việc buôn bán ma tuý qua biên giới, thực hiện các giải pháp hữu hiệu để hạn chế lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh dịch nguy hiểm khác.
Đối với lĩnh vực giáo dục, cần đẩy mạnh phát triển các trường ngoài công lập, xây dựng đề án chuyển một số cơ sở đào tạo công lập ra ngoài công lập, tiến đến xoá bỏ hệ bán công trong hệ thống giáo dục. Tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi về cho vay đầu tư, tín dụng đầu tư, ưu đãi đầu tư về đất đai, thuế để xây dựng và tăng cường cơ sở vật chất các trường ngoài công lập.
Đa dạng hoá các nguốn vốn đầu tư cho lĩnh vực tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đội ngũ cán bộ chuyên môn cho các cơ quan làm nhiệm vụ điều tra cơ bản, bảo vệ môi trường và quản lý thực hiện chương trình phát triển bền vững.
Mở rộng cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cung cấp dịch vụ về bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ, đào tạo, giải trí, Nhà nước chỉ quản lý về chuyên môn, chất lượng.
Vấn đề quan trọng được nêu trong báo cáo của Chính phủ đó là tiếp tục cải cách hành chính, đặc biệt đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, bảo đảm tính minh bạch trong quản lý ngân sách, đẩy mạnh công tác kiểm toán trong cơ quan hành chính sự nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước./.
Nguồn: http://www.vov.org.vn
