VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin nổi bật

Phát triển khu vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

15/07/2019 - 468 Lượt xem

Kinh nghiệm quốc tế về phát triển khu vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0

Các quốc gia trên thế giới có những hướng tiếp cận khác nhau đối với Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) nói chung và khu vực tài chính - ngân hàng (TCNH) 4.0 nói riêng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực TCNH, phản ứng của các quốc gia có thể chia thành hai dạng tiếp cận: phản ứng chủ động và phản ứng thụ động. Trong đó, các quốc gia chọn hướng phản ứng tiếp cận chủ động thường quan tâm tương tác chặt chẽ với các nhà sáng tạo để nắm bắt các phát triển mới của công nghệ tài chính (Fintech), các trở ngại pháp lý đối với sự đổi mới và hỗ trợ khởi nghiệp nhằm giải quyết những thách thức đặt ra. Các chính sách phổ biến được hướng tới, như khuôn khổ pháp lý thử nghiệm, ký kết các thỏa thuận hợp tác đa quốc gia và xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo... Các quốc gia theo cách tiếp cận này thường có thị trường phát triển, công nghệ đổi mới rất cao. 

Đối với các quốc gia chọn hướng tiếp cận phản ứng thụ động, các nhà hoạch định chính sách đóng vai trò tích cực trong việc cố gắng làm cho Fintech thành công, nhưng phản ứng thường không tích cực và sẵn sàng điều chỉnh các quy định pháp lý khi cần thiết. Tiếp cận này chủ yếu được áp dụng ở các quốc gia cho rằng CMCN 4.0 không gây ảnh hưởng quá lớn tới thị trường của họ. Các quốc gia này thường có nhiều hạn chế về hạ tầng công nghệ thông tin, nguồn nhân lực và thể chế. Thực tế này trở thành trở ngại của tiến trình đổi mới, khó đưa công nghệ của CMCN 4.0 vào ứng dụng. Do đó, các nhà quản lý thường ít bị áp lực hơn trong việc điều chỉnh khuôn khổ pháp lý, trong khi mức độ thay đổi của công nghệ là quá nhanh so với sự thay đổi của khuôn khổ pháp lý.

Để chuẩn bị tốt cho việc hình thành khung pháp lý, một số quốc gia đã tiến hành xây dựng các “sandbox” (một kỹ thuật quan trọng trong lĩnh vực bảo mật) pháp lý chung cũng như các sandbox ngành. Các sandbox pháp lý chung cung cấp môi trường để thử nghiệm các sản phẩm và dịch vụ mới mà nhà phát triển đang tìm cách đưa ra thị trường. Trong quá trình này, các công ty Fintech được miễn một số yêu cầu pháp lý hoặc quy định nhất định có thể cản trở sự phát triển của công nghệ. Các sandbox của ngành được dẫn dắt và tài trợ bởi các bên liên quan trong ngành và cung cấp các cơ hội để thử nghiệm sản phẩm trong môi trường thị trường mô phỏng không có khách hàng. Ngoài ra, một số quốc gia chọn phản ứng tiếp cận theo hướng “thử nghiệm và học hỏi”, như In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, Kê-ni-a...; hay “chờ đợi và xem xét”, như Trung Quốc. 

Đối với sự chuẩn bị về nguồn nhân lực, một số quốc gia đã dành sự quan tâm đặc biệt cho nguồn nhân lực trong bối cảnh CMCN 4.0. Trong đó, xu hướng nổi bật là chuyển đổi hệ sinh thái giáo dục thông qua các giải pháp chính, như giáo dục trẻ em từ sớm, phát triển chương trình “sẵn sàng trong tương lai”; đào tạo đội ngũ giảng viên chuyên nghiệp; đào tạo nguồn nhân lực thông thạo kỹ thuật số; thúc đẩy giáo dục kỹ thuật và dạy nghề; phổ biến quan điểm học tập suốt đời. Một số quốc gia rất thành công với chiến lược đầu tư vào nhân lực, như chiến lược đào tạo và tập luyện toàn diện cho người lớn của Xin-ga-po; chiến lược giáo dục nền tảng sẵn sàng trong tương lai của Phần Lan; khung và tiêu chuẩn để mở rộng giáo dục khu vực tư nhân ở Ấn Độ; cách tiếp cận toàn diện cho hệ thống học nghề ở Đức và Thụy Sĩ...

Đối với kết cấu hạ tầng, việc chuẩn bị không chỉ đến từ các quốc gia mà còn từ các doanh nghiệp, tập đoàn tài chính lớn. Các quốc gia tập trung phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ mục tiêu chiến lược của Fintech, như hệ thống thanh toán tức thời và sổ cái phân tán ở Mỹ; kết nối hạ tầng thanh toán của ngân hàng và viễn thông tại Trung Quốc và Thái Lan; đầu tư nâng cao chất lượng hệ thống thanh toán bù trừ và hệ thống quyết toán tại châu Âu; xây dựng nền tảng kết nối cho các doanh nghiệp ở Xin-ga-po. Các tập đoàn tài chính lớn trên thế giới quan tâm nhiều hơn tới kết cấu hạ tầng trong thanh toán quốc tế, như việc 6 ngân hàng lớn nhất thế giới thành lập dự án “Blockchain Utility Settlement Coin” (tiền điện tử) cho phép giao dịch chứng khoán không cần chuyển tiền, hoặc mạng lưới nhà cung cấp dịch vụ thanh toán (PSP) liên quốc gia (như Earthport) cho phép thanh toán nhanh tới mọi tài khoản ngân hàng tại hơn 65 quốc gia trên thế giới.

Nhìn chung, tiếp cận CMCN 4.0 ở các quốc gia có sự khác nhau, tuy nhiên, các quốc gia đều nhìn nhận CMCN 4.0 là cơ hội lớn cho phát triển kinh tế - xã hội, do đó chính phủ các nước đều có chỉ đạo nghiên cứu và theo dõi sát diễn biến của CMCN 4.0. Việt Nam có thể nghiên cứu, xem xét hướng tiếp cận chủ động, ứng dụng sandbox trong việc xây dựng chính sách, khuyến khích phát triển công nghệ trong lĩnh vực TCNH, chú trọng hoàn thiện kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải cách thể chế theo hướng tháo gỡ các rào cản phát triển công nghệ.

Cách mạng công nghiệp 4.0 trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng ở Việt Nam

Tài chính ngân hàng là khu vực năng động nhất ở Việt Nam về triển khai nghiên cứu và ứng dụng CMCN 4.0. Kết quả khảo sát của Viện Chiến lược ngân hàng thực hiện vào tháng 5-2017 cho thấy, 92% số ý kiến khảo sát trả lời đang có những chuẩn bị về đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển kênh bán hàng qua công nghệ số để đón nhận và thích ứng với những bước tiến của CMCN 4.0; 76%: đã chuẩn bị để thu hút lao động trong lĩnh vực kỹ thuật - công nghệ cao và công nghệ thông tin; 96% các ngân hàng hiện nay đang xây dựng chiến lược phát triển công nghệ cao, công nghệ đặc trưng của CMCN 4.0 đến năm 2025, trong đó có 3 ngân hàng (Ngân hàng Việt Nam Thịnh vượng - VP bank; Ngân hàng Tiền Phong - TP bank; Tập đoàn Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải (HSBC) đã có chiến lược phát triển về rô-bốt tự động và tiên tiến. Các xu hướng nổi bật trong ứng dụng CMCN 4.0 ở Việt Nam bao gồm tăng cường phát triển ngân hàng số (digital banking), ứng dụng dữ liệu lớn (big data), ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào phục vụ khách hàng trong ngân hàng số, ứng dụng công nghệ điện toán đám mây (Cloud Computing) và nghiên cứu, ứng dụng tự động hóa quy trình bằng rô-bốt (Robotic Process Automation - RPA).

Fintech góp phần làm thay đổi sâu sắc diện mạo của ngành công nghiệp tài chính ở Việt Nam. Theo Khảo sát toàn cảnh về Fintech của khu vực ASEAN 2018 của Ernst & Young (một trong bốn công ty kiểm toán hàng đầu thế giới hiện nay), Việt Nam hiện có khoảng 78 công ty Fintech đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư lên tới 129 triệu USD. Trong đó, hiện có tới 90% các khoản thanh toán đang dùng tiền mặt và các công ty Fintech Việt Nam tập trung khá nhiều cho lĩnh vực thanh toán, chiếm 47% trên tổng số 78 công ty Việt Nam, đây là tỷ lệ cao nhất trong khu vực ASEAN. Các sản phẩm chủ yếu của Fintech trong lĩnh vực ngân hàng có thể kể đến, như ví điện tử, chuyển tiền ngang cấp, dịch vụ cung cấp thông tin tài chính, cho vay ngang hàng, gọi vốn cộng đồng, tiền thuật toán Bitcoin... Cách mạng công nghệ 4.0 với thị trường chứng khoán Việt Nam đang làm tăng chất lượng hàng hóa, gia tăng tiện ích cho nhà đầu tư và cải thiện phương thức vận hành thông qua tác động đến chất lượng các doanh nghiệp niêm yết, các tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán và các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.

Nhìn chung, tác động của CMCN 4.0 đến lĩnh vực TCNH ở Việt Nam là khá rõ ràng. Có thể nói, khu vực dịch vụ TCNH ở Việt Nam đã có phản ứng nhanh nhất so với các khu vực khác trong việc chủ động nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ của CMCN 4.0 vào đổi mới cách thức quản trị ngân hàng; đổi mới quan hệ khách hàng; hiện đại hóa cách thức thực hiện giao dịch, các kênh cung cấp, phân phối sản phẩm; ứng dụng dữ liệu lớn; ứng dụng trí tuệ nhân tạo; ứng dụng điện toán đám mây; công nghệ Fintech trong thanh toán... Nguyên nhân của sự bứt phá này ở khu vực TCNH là: chi phí giảm thúc đẩy lan tỏa rộng rãi công nghệ trong khu vực TCNH; việc kết hợp nhiều loại hình công nghệ số, hội tụ công nghệ số với các công nghệ khác giúp nâng cao hiệu quả hoạt động, làm cho quá trình vận hành trở nên đơn giản hơn, chính xác hơn; hệ thống TCNH hiện nay đang tiếp cận khá tốt với xu thế công nghệ trên thế giới. Tuy nhiên, so với quy mô tổng thể của cả hệ thống TCNH Việt Nam, rõ ràng việc nghiên cứu, chủ động ứng dụng công nghệ của CMCN 4.0 còn rất rời rạc và chỉ diễn ra chủ yếu ở các tổ chức TCNH lớn - là nhóm có thế mạnh sẵn có về khoa học - công nghệ trước đó nhận thức được tầm quan trọng của CMCN 4.0. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều tổ chức TCNH đang trong giai đoạn nghiên cứu hoặc chưa có động thái gì. Nhóm này chủ yếu có quy mô nhỏ, nền tảng khoa học - công nghệ còn hạn chế, chưa bắt kịp được xu thế thay đổi của CMCN 4.0 trong nước và trên thế giới. Mô hình hoạt động vẫn theo truyền thống là chủ đạo. Bối cảnh này sẽ tạo áp lực lớn cho nhóm còn lại trước việc phải cấu trúc lại hoạt động trên nền tảng ứng dụng công nghệ của CMCN 4.0 để tồn tại. 

Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển khu vực tài chính - ngân hàng Việt Nam

Cách mạng công nghiệp 4.0 đem đến cho khu vực TCNH Việt Nam nhiều cơ hội phát triển mới, trong đó nổi bật là: 

1- Rút ngắn khoảng cách công nghệ so với thế giới. Nhu cầu ứng dụng và phát triển công nghệ cao trong hoạt động của ngân hàng tại Việt Nam đang tăng cao. Điều tra của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, có những ngân hàng dự kiến sẽ đầu tư 8% - 10% tổng chi phí hoạt động hằng năm cho công nghệ thông tin. Những tiến bộ từ cuộc cách mạng công nghệ số và tiếp theo là cuộc CMCN 4.0 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng Việt Nam có cơ hội thu hút vốn đầu tư, tiếp cận thị trường quốc tế; cập nhật được trình độ quản trị điều hành và kinh doanh hiện đại; tiếp thu những mô hình ngân hàng số thông minh; đổi mới công nghệ nhờ việc ứng dụng hay chuyển giao công nghệ cao, phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, phát huy tiềm năng to lớn về lĩnh vực TCNH và có những thay đổi kịp thời với xu thế công nghệ mới khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và ký kết một loạt hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu, hay FTA Việt Nam - Hàn Quốc, FTA Việt Nam - Nhật Bản... 

2- Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường quốc tế: Hiện nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao, thương mại với hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tham gia vào phần lớn các FTA có quy mô lớn trên thế giới, sự hiện diện của CMCN 4.0 sẽ là cơ hội cho không chỉ các tổ chức TCNH lớn mà toàn hệ thống có thể vươn ra khỏi lãnh thổ, mở rộng phạm vi hoạt động và tạo dựng thương hiệu quốc tế trong điều kiện sân chơi kinh doanh bình đẳng mang tính toàn cầu, có tính chuyên nghiệp cao. Điều này sẽ mở ra cơ hội lớn cho khu vực TCNH bắt kịp trình độ thế giới, mở rộng thị trường, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

3- Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ TCNH theo hướng hiện đại, hiệu quả về thời gian, không gian, chi phí và gia tăng lợi nhuận: Cách mạng công nghiệp 4.0 trên nền tảng công nghệ số và tích hợp các công nghệ thông minh, mở ra cơ hội lớn trong việc giảm chi phí giao dịch, vận chuyển, quản lý, đáp ứng tối ưu nhu cầu của khách hàng... đặc biệt là sẽ thách thức mô hình truyền thống, tạo áp lực phải hiện đại hóa hoạt động TCNH nếu không muốn bị loại khỏi thị trường, tạo nên cuộc cạnh tranh phát triển tích cực cho khu vực TCNH, là điều mà khu vực TCNH Việt Nam cần có trong bối cảnh hội nhập quốc tế và công nghệ thông minh.

Bên cạnh các cơ hội nêu trên, việc phát triển CMCN 4.0 trong khu vực TCNH ở Việt Nam cũng gặp phải một số thách thức, nổi bật là:

1- Khoảng trống chính sách đòi hỏi phải xây dựng quy định pháp lý đáp ứng nhu cầu cải cách công nghệ trong khu vực TCNH. Các công nghệ trong CMCN 4.0 phát triển quá nhanh, khiến nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, thực sự lúng túng trong việc thiết kế khung khổ pháp lý, đặt ra yêu cầu mới cho Chính phủ trong việc thiết kế các khuôn khổ chính sách mới để quản lý, giám sát những yếu tố mới của khu vực TCNH, như: tiền thuật toán (crypto currency), tiền điện tử (e-money), các công ty Fintech... Ngoài ra, sự thiếu tính đồng bộ, thống nhất trong các quy định, thủ tục gây trở ngại lớn đối với việc xây dựng quy định pháp lý mới đáp ứng nhu cầu cải cách công nghệ khu vực TCNH. 

2- Hạ tầng thanh toán phát triển chưa đồng đều và chưa thực sự hoàn thiện. Hiện nay, hệ thống thanh toán của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế về công nghệ, tiêu chuẩn về thẻ chip nội địa, chuẩn tin điện tài chính, tính đồng bộ toàn hệ thống... Thực trạng này gây trở ngại cho việc hội nhập, kết nối với hệ thống thanh toán khu vực và quốc tế.

3- Nguồn nhân lực chưa được chuẩn bị để ứng phó với sự thay đổi của CMCN 4.0: Cuộc cách mạng này sẽ thay đổi cách thức tuyển dụng, đãi ngộ, sử dụng... nhằm thu hút được nhân tài phục vụ lâu dài cho khu vực TCNH. Yêu cầu về chất lượng nhân lực sẽ thay đổi kèm theo yêu cầu kỹ năng vận hành công nghệ số, tính tuân thủ về quy trình vận hành cung ứng sản phẩm dịch vụ TCNH,... đặt ra những vấn đề mới về đào tạo nguồn lực cho khu vực TCNH 4.0 ở các cơ sở đào tạo. 

4- Điều tiết và kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh tiền điện tử ngày càng được sử dụng và chấp nhận rộng rãi. Sự xuất hiện của tiền điện tử gây thách thức lớn cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong đo lường, kiểm soát và dự báo lượng cung tiền trong lưu thông. Ngoài ra, xu hướng thâm nhập giữa các công ty công nghệ Fintech vào lĩnh vực TCNH đang thách thức các hoạt động ngân hàng truyền thống, như thanh toán, chuyển tiền... 

5- Rủi ro công nghệ thông tin, an ninh bảo mật, tội phạm công nghệ. Kết nối in-tơ-nét vạn vật (IoT) và dữ liệu lớn khiến rủi ro về công nghệ thông tin có thể tăng lên, đặc biệt là vấn đề an ninh mạng và bảo mật thông tin. Với sự phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số và xu hướng chuyển dần sang điện toán đám mây, những lỗ hổng bảo mật theo đó có thể gia tăng, dẫn đến những thách thức to lớn về rủi ro tin tặc. Các rủi ro này có thể gây nên những tổn thất rất lớn cho hệ thống TCNH, từ đó tác động đến an ninh tài chính, giảm uy tín điều hành của Chính phủ. 

Đối chiếu với nền tảng mà Việt Nam đang có với những đặc trưng của cuộc CMCN 4.0 có thể thấy, Việt Nam hội tụ một số điều kiện thuận lợi là nền tảng tốt cho phát triển CMCN 4.0 trong các ngành, nghề nói chung và ngành TCNH nói riêng, điều này thể hiện ở: Một là, với lực lượng lao động dồi dào, có tố chất thông minh, hiếu học, dễ tiếp thu các thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại; thêm vào đó, thế hệ trẻ Việt Nam cũng là những người yêu công nghệ, việc sử dụng điện thoại và in-tơ-nét như là một chuẩn mực trong đời sống hằng ngày; Hai là, có hạ tầng mạng viễn thông tương đối hoàn thiện và phát triển với nhiều hình thức khác nhau. Ba là, quyết tâm của hệ thống chính trị. Trong cuộc CMCN 4.0, Chính phủ xác định, đây là cơ hội tốt để Việt Nam nhanh chóng hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bắt kịp với các quốc gia hiện đại trong khu vực và trên thế giới. 

Giải pháp phát triển khu vực tài chính - ngân hàng 4.0 ở Việt Nam

Để hiện thực hóa các cơ hội phát triển, đồng thời hạn chế những thách thức nêu trên đối với khu vực TCNH trong bối cảnh CMCN 4.0, đòi hỏi thực hiện đồng bộ và hiệu quả các nhóm giải pháp sau: 

Thứ nhất, nhóm giải pháp về thể chế, chính sách. Thể chế, chính sách đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập khuôn khổ nền tảng cho sự phát triển của khu vực TCNH. Việc hoàn thiện thể chế, chính sách cần tập trung vào một số vấn đề sau:

- Thống nhất khái niệm, cách hiểu về các sản phẩm của TCNH 4.0 dựa trên thông lệ quốc tế và hệ thống pháp lý hiện hành. Việc thống nhất cách hiểu là rất quan trọng cho việc rà soát các văn bản pháp lý liên quan, cũng như phân công trách nhiệm quản lý cho các bộ, ngành liên quan.

- Rà soát, sửa đổi các văn bản pháp lý hiện hành theo hướng tạo điều kiện cho ứng dụng, giao dịch, phát triển các sản phẩm của TCNH 4.0. Hiện nay ở Việt Nam còn nhiều văn bản pháp lý khi được ban hành thì các sản phẩm, hoạt động của TCNH 4.0 chưa ra đời và do đó có những điểm chưa phù hợp với xu hướng phát triển. 

- Ban hành khung khổ pháp lý thử nghiệm có kiểm soát. Các sandbox cần phải bảo đảm các tiêu chí trước và sau khi một sản phẩm - hoạt động được đưa vào sandbox. Trước khi đưa một sản phẩm - hoạt động vào sandbox, sản phẩm được chọn phải là một sản phẩm - hoạt động mới của TCNH 4.0, tạo ra giá trị gia tăng tích cực cho xã hội. Khi được đưa vào sandbox, sản phẩm - hoạt động này sẽ vượt qua các rào cản pháp lý và cơ chế kiểm tra, kiểm soát hiện nay. Vì vậy, việc đưa ra các tiêu chí để phòng ngừa việc lợi dụng sandbox cho các mục đích tiêu cực là cần thiết, như việc lợi dụng sandbox để thực hiện các hoạt động phi pháp, hay cố tình đưa một sản phẩm với công nghệ bình thường vào sandbox để trốn thuế. Sau một thời gian hoạt động, cần có một ủy ban chuyên trách theo dõi, đánh giá để sau một thời gian thử nghiệm, các thông tư, luật lệ liên quan có thể nhanh chóng được ban hành. Điều này sẽ tránh được việc độc quyền trên thị trường và tránh tạo ra các cơ chế xin - cho.

Ngoài các giải pháp trên, trong nhóm giải pháp về thể chế cũng cần hoàn thiện theo hướng giống hoặc tiệm cận các chuẩn mực về công nghệ, về thể chế, về luật pháp quốc tế; sớm ban hành các quy định về trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là bộ phận thanh tra, giám sát phù hợp với bối cảnh khu vực TCNH 4.0, đồng thời xây dựng các giải pháp, chính sách để khuyến khích các công ty công nghệ tài chính mở rộng quy mô ở cả thị trường Việt Nam lẫn thị trường quốc tế.

Thứ hai, nhóm giải pháp về vai trò cung cấp các dịch vụ công nhằm thể hiện tính chất định hướng của Nhà nước đối với việc thúc đẩy TCNH 4.0 ở Việt Nam. Nhà nước cần tích cực áp dụng TCNH 4.0 trong cung cấp và thanh toán cho các dịch vụ công. Hiện tại, tỷ lệ thanh toán các dịch vụ công sử dụng tiền mặt của Việt Nam vẫn cao hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực và các quốc gia có trình độ phát triển tương đương hoặc kém hơn trên thế giới. Điều này có thể nhanh chóng được thay đổi nếu Nhà nước áp dụng các công nghệ thanh toán mới trong thanh toán các dịch vụ công. Trong dài hạn, điều này còn có thể giúp giảm biên chế và tiết kiệm ngân sách. Ngoài ra, Nhà nước cần chỉ đạo các doanh nghiệp, tập đoàn nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp, tập đoàn đang cung cấp các dịch vụ công tạo điều kiện và có cơ chế khuyến khích người dân sử dụng các phương tiện thanh toán mới.

Nhà nước cần tích cực áp dụng TCNH 4.0 trong thanh tra, giám sát hệ thống TCNH (reg-tech) theo hướng tự động hóa và/hoặc sử dụng trí tuệ nhân tạo. Điều này giúp tăng tính minh bạch, hiệu quả trong hoạt động của khu vực TCNH. Hiện nay, việc phát hiện các hoạt động làm giá cổ phiếu bằng cách sử dụng trí tuệ nhân tạo đã được áp dụng ở một số quốc gia tiên tiến.

Thứ ba, nhóm giải pháp về kết cấu hạ tầng, thông tin nhằm đáp ứng nền tảng về công nghệ để ứng dụng, phát triển các thành tựu của CMCN 4.0.

- Nâng cấp đường truyền băng thông rộng. So với các quốc gia trong khu vực, mức độ phủ sóng wifi của Việt Nam là khá cao. Tuy nhiên, tốc độ đường truyền (download) còn thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực, chi phí download còn cao. Điều này cần nhanh chóng được cải thiện để tạo ra hệ thống hạ tầng tốt cho CMCN 4.0 nói chung và TCNH 4.0 nói riêng.

- Thành lập Trung tâm đổi mới, sáng tạo là nơi có thể thử nghiệm các sản phẩm - hoạt động mới của TCNH 4.0. Các khung pháp lý thử nghiệm (regulatory sandbox) cũng có thể được đặt ở đây. Đối với TCNH 4.0, địa điểm đặt trung tâm này cần phải ở trung tâm của Thủ đô Hà Nội để có thể dễ dàng kết nối với các doanh nghiệp, ngân hàng, công ty tài chính... và các bộ, ban, ngành liên quan. Trung tâm này có nhiệm vụ thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ tài chính công nghệ, phác thảo các hành lang pháp lý để nhanh chóng đưa các sản phẩm, dịch vụ này áp dụng đại trà. Các sandbox đặt trong trung tâm sau một thời gian thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ cần phải phác thảo các hành lang pháp lý cần thiết (đề xuất sửa đổi, xây dựng mới...). Sau đó, các bộ, ngành liên quan cần phải đưa ra những văn bản pháp luật chi tiết. Ngoài ra, để nâng cấp và hoàn thiện kết cấu hạ tầng cho phát triển TCNH 4.0, Nhà nước cần sớm thiết lập hạ tầng nhận diện điện tử quốc gia, phù hợp với thông lệ quốc tế và có thể được chấp nhận trong các giao dịch quốc tế; các cơ quan quản lý nhà nước cần tích cực số hóa các dịch vụ cung cấp và số hóa các quy trình quản lý khi có thể; nâng cao năng lực của Trung tâm an ninh mạng quốc gia.

Thứ tư, nhóm giải pháp về nguồn nhân lực không chỉ có khả năng ứng dụng thành tựu của thế giới mà còn có đủ năng lực sáng tạo, ứng dụng mới dựa trên nền tảng công nghệ của CMCN 4.0.

- Phổ cập giảng dạy về lập trình và cơ sở dữ liệu ở bậc đại học nhằm đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin đáp ứng được năng lực ứng dụng, sáng tạo trong bối cảnh CMCN 4.0 nói chung và trong ngành TCNH 4.0 nói riêng. Phát triển các đại học vùng đa ngành, nghề/lĩnh vực thay vì đào tạo quá chuyên sâu như hiện nay do nguồn nhân lực trong bối cảnh CMCN 4.0 nói chung và trong ngành TCNH 4.0 nói riêng đòi hỏi tư duy tổng hợp, đặc biệt là khối kiến thức về công nghệ thông tin và TCNH. Trước mắt, Chính phủ cần cân nhắc đầu tư có trọng điểm vào các khoa công nghệ thông tin tại các trường đại học kinh tế, TCNH.

- Có chiến lược đào tạo các cán bộ quản lý nhà nước liên quan để đáp ứng các công tác quản lý nhà nước cho TCNH 4.0. Bối cảnh CMCN 4.0 đặt ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý, như các luật và chính sách mới ban hành, sự đa dạng các hình thức mới trong hoạt động TCNH... đòi hỏi cán bộ quản lý nhà nước không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ. Cần có chiến lược đào tạo các cán bộ quản lý trong ngành TCNH, đặc biệt là cán bộ quản lý cấp cao theo hướng vững vàng về chuyên môn và thường xuyên cập nhật các kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp theo chuẩn quốc tế./.

Nguồn: Tạp chí Cộng sản

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/kinh-te/2019/55178/Phat-trien-khu-vuc-tai-chinh-ngan-hang-trong-boi-canh.aspx