VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin nổi bật

Đẩy mạnh tiến trình Đổi mới thế nào?

06/08/2010 - 429 Lượt xem

Ba cuộc họp bàn tròn cấp cao tổng kết 20 năm Đổi mới của Việt Nam trước đây do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế Thuỵ Điển (Sida) phối hợp tổ chức đã là cầu nối, điểm hội tụ của các nhà khoa học Việt Nam với các nhà khoa học quốc tế nhằm thảo luận những vấn đề của Việt Nam với mong muốn Việt Nam phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững hơn.

Tại Hội thảo cấp cao lần thứ 4 vừa diễn ra tại Hà Nội và cũng là lần cuối cùng để tổng kết 20 năm Đổi mới của Việt Nam, một lần nữa các chuyên gia trong và ngoài nước lại nhìn nhận, đánh giá, bình luận về công cuộc Đổi mới của Việt Nam.

Nhưng khác với các lần trước, cuộc họp bàn tròn lần cuối này đưa ra một cách nhìn nhận cho tương lai, trên cơ sở đó khuyến nghị với Chính phủ Việt Nam những việc cần làm để có thể phát huy và giữ vững những thành quả của công cuộc Đổi mới và phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. Chúng tôi xin trích giới thiệu những ý kiến đóng góp của những diễn giả tại Hội nghị.

Nhà nước chỉ can thiệp có mức độ
Giáo sư David Dapice, Đại học Havard

Đổi mới là một thành công lớn, đưa Việt Nam từ một nước nghèo thành một nước đang phát triển hàng đầu. Đổi mới đã giải phóng các lực lượng sản xuất trong toàn bộ dân chúng và trên khắp đất nước, cải thiện hầu hết mọi khía cạnh của đời sống cho hầu hết tất cả mọi người.

Ở đâu Đổi mới thực sự được cho phép và được thực hiện, ở đó có thành công. Ở đâu Đổi mới bị lảng tránh hoặc cắt bỏ, ở đó có sự thụt lùi.

Nhìn về tương lai, cải cách hơn nữa có lẽ đem lại nhiều lợi ích thuần tuý về kinh tế hơn. Câu hỏi đặt ra là liệu có một sự nhất trí chính trị để theo đuổi đổi mới không. Điều này có lẽ phụ thuộc vào việc những cải cách tiếp theo được tiếp tục như thế nào.

Để thuyết phục các địa phương ủng hộ Đổi mới, cần phải có những động cơ thúc đẩy khác. Đầu tư công cộng cần phải nhiệt tình hơn với sự cải cách. Khi các tiêu chuẩn đánh giá như chỉ số về tính cạnh tranh của địa phương cho thấy sự quản lý đang được cải thiện thì nên có sự hỗ trợ linh hoạt nhằm vào việc cải thiện cơ sở hạ tầng cứng tại nơi mà cơ sở hạ tầng mềm cũng đã được cải thiện.

Việc Nhà nước chuyển từ cố gắng trong quản lý tất cả lĩnh vực giáo dục sang khuyến khích sự phát triển các cơ sở giáo dục đa dạng nhưng chất lượng cũng sẽ gặt hái được những lợi ích chính trị lớn. Dân số được giáo dục tốt hơn sẽ hưởng nhiều lợi hơn, hấp dẫn được nhiều đầu tư hơn, thành lập được nhiều công ty năng suất hơn, và nhìn chung bản thân họ sẽ ủng hộ Đổi mới nhiều hơn đồng thời cũng ủng hộ Chính phủ.

Nhà nước nên đóng vai trò khiêm tốn và tập trung sức lực vào quản lý một số ít các doanh nghiệp Nhà nước được cho là thực sự cần thiết thuộc về Nhà nước hơn là phát triển một cách mạnh mẽ. Nếu các doanh nghiệp Nhà nước phát triển mạnh mẽ thì việc kiểm soát tham nhũng sẽ khó khăn hơn. Sẽ có nhiều xích mích hơn với các đối tác thương mại, và những đầu tư FDI hay tư nhân sẽ hạn chế vì vốn và lao động có trình độ sẽ bị hút bớt.

Nên tìm cách kết hợp đầu vào của khu vực tư nhân mà không để khu vực này chi phối việc hoạch định chính sách. Với sự yếu kém của khu vực tư nhân thì điều này dường như là một sự lo ngại không căn cứ. Nhưng nhiều công ty tư nhân được quản lý bởi những người có quan hệ tốt và gần gũi với giới lãnh đạo.

Một điều hoàn toàn có thể xảy ra là họ sẽ đề nghị và nhận được nhiều lợi thế khác nhau khó xác định và do đó tránh được những thách thức về pháp luật hay từ WTO. Việc giảm độc quyền Nhà nước và sự thiếu hiệu quả sẽ chỉ có những lợi ích khiêm tốn nếu được thay bằng sự độc quyền và thiếu hiệu quả của tư nhân. Điều đó sẽ trở thành một quan ngại lớn về lâu về dài...

Đổi mới hệ thống hành chính
TSKH. Võ Đại Lược, Ban nghiên cứu của Thủ tướng

Đâu là sức ép của đổi mới? Có thể có ba căn cứ:

Thứ nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam từ cuối những năm 70 kéo dài cả thập kỷ 80 đã đặt những người lãnh đạo đất nước, các học giả, các tầng lớp xã hội vào một tình thế phải tìm kiếm lối thoát, lúc đầu những tìm kiếm này chỉ trong mô hình kinh tế kế hoạch, nhưng đã không thành công, do vậy phải tìm kiếm những giải pháp vượt khỏi mô hình này.

Thứ hai, mô hình phát triển Xô Viết đã lâm vào tình trạng bế tắc và sụp đổ vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90, đây là điều kiện quan trọng cho phép Việt Nam có thể vượt qua mô hình này.

Thứ ba là những mô hình phát triển ở Đông Á đã đạt được những định hướng đổi mới.

Trong điều kiện mới của Việt Nam, một vấn đề đặt ra đối với sự đổi mới của Nhà nước là chưa có hệ thống hành chính thích hợp với kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là một hệ thống hành chính như thế nào thì thích hợp với kinh tế thị trường và Việt Nam phải cải cách hành chính như thế nào? Câu trả lời trên thực tế đã được đề cập tới trong nhiều tài liệu như: phải có hệ thống luật pháp theo kinh tế thị trường, phải công khai minh bạch, dân chủ, phải có hệ thống tư pháp đủ mạnh...

Nhưng vấn đề là Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, chưa thể ngay lập tức tiếp thu và thiết lập được những giá trị hiện đại đó, phải có thời gian. Hệ thống hành chính quá độ của Việt Nam hiện nay đang chứa đựng trong nó cả những yếu tố mới và cũ. Cái cũ dù muốn bỏ cũng chưa bỏ được, vì đã thành tập quán gắn với lợi ích của những nhóm xã hội nhất định.

Cái mới tuy là đúng, tiến bộ, nhưng cũng chưa tiếp nhận được, vì không ít nhóm xã hội chưa đồng tình, và cũng chưa hội đủ những điều kiện cần thiết. Chẳng hạn ở Việt Nam thị trường vốn đang hình thành sơ khai chưa giữ được vai trò phân bổ vốn, thị trường đất đai cũng vậy, nên Nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc phân bổ vốn và đất đai.

Vấn đề không phải là Nhà nước Việt Nam phải bỏ ngay cơ chế “xin - cho”, nguồn gốc của tham nhũng, mà là Nhà nước Việt Nam phải ban hành những thể chế cần thiết để xác lập ngay thị trường vốn và bất động sản, và khi thị trường này hoạt động đến đâu, thì đương nhiên cơ chế “xin-cho” sẽ lùi đến đó...

Tăng cường hình thành các thể chế
Bà Anna Lindstedt, Đại sứ Thuỵ Điển tại Việt Nam

Duy trì sự bền vững của đổi mới có thể sẽ còn khó khăn hơn nhiều trong tương lai xét ở góc độ cạnh tranh toàn cầu ngày càng tăng. Sự tăng trưởng lớn về xuất khẩu trên thế giới đã dẫn đến việc hình thành một nền kinh tế toàn cầu duy nhất.

Công nghệ đã thay đổi rất nhanh không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các thị trường khác, nơi mà sức cạnh tranh lớn hơn nhiều so với Việt Nam. áp lực về môi trường ngày càng tăng không chỉ ở Việt Nam mà là ở khắp mọi nơi trên thế giới.

Làm thế nào Việt Nam có thể phát triển nhanh chóng trong bối cảnh thế giới như vậy? Việt Nam cần phải phát triển những thể chế mạnh mẽ, ở đây cụm từ “thể chế” được hiểu theo nghĩa rộng của nó. Những thể chế mạnh mẽ đó phải có khả năng thực hiện tốt những nhiệm vụ cơ bản của mình, khích lệ tài năng và đáp ứng được với những điều kiện thay đổi. Những thể chế quan trọng đó bao gồm: dân chủ, việc làm có năng suất, thị trường có tính cạnh tranh, hiệu quả trong khu vực công, bao gồm cả việc chống tham nhũng, sử dụng môi trường một cách bền vững.

Điều quan trọng hơn nữa là phát triển một đất nước trong đó mọi người dân Việt Nam với điều kiện của mình có thể đóng góp cho đất nước và có thể được hưởng những thành quả của sự phát triển đất nước. Vì thế giới quanh ta đã cho thấy một điều rõ ràng là những nước chấp nhận những khác biệt của mình và xây dựng niềm tin giữa những con người khác nhau sẽ đem lại lợi ích vô cùng lớn; sẽ phải mất nhiều năm, nếu không nói là nhiều thế hệ để xây dựng lại từ những thiệt hại do bất đồng hay chia rẽ trong dân.

Vì vậy, kiến nghị mà tôi đưa ra là Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy công cuộc xoá đói giảm nghèo. Công cuộc này có thể sẽ khó khăn hơn trong tương lai và có thể đòi hỏi phải có biện pháp khác chứ không phải là những biện pháp đã được áp dụng thành công từ trước tới nay; làm nhiều hơn để đem lại sự thịnh vượng cho dân tộc thiểu số và khuyến khích sự tham gia của họ trong xã hội; giải phóng tiềm năng của phụ nữ Việt Nam; đảm bảo là mọi người Việt Nam đều được đi học và được chăm sóc sức khoẻ, đặc biệt là những người nghèo. Đầu tư vào giáo dục và y tế là rất hiệu quả trong một nền kinh tế đang phát triển.

Đổi mới kinh tế cho ai?
Ông Jomo Kwame Sundaram, Trợ lý Tổng thư ký Liên hợp quốc

Trong thời kỳ Đổi mới, bất bình đẳng được ghi nhận ở Việt Nam không quá gay gắt. Tuy nhiên Việt Nam không thể tự thoả mãn bởi vì Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá và có khả năng những nhân tố thúc đẩy bất bình đẳng sẽ phát triển tại Việt Nam trong quá trình đổi mới.

Ở Việt Nam ngày càng ít lực lượng lao động được bảo đảm bởi các cơ chế an sinh xã hội của doanh nghiệp; và hệ thống an sinh xã hội phổ cập chưa được hình thành. Việt Nam ngày càng phải dựa vào việc thu lệ phí người dân để tạo nguồn thu cho chi tiêu y tế và giáo dục và bình đẳng trong giáo dục hiện là một mối quan tâm lớn của xã hội.

Giống như Trung Quốc, việc làm được trả lương đang tăng nhanh ở Việt Nam, và là một nguồn việc làm chính ở cả vùng nông thôn và thành phố. Việt Nam cũng đang duy trì hệ thống đăng ký hộ khẩu mà nó buộc người ngoại tỉnh trả lệ phí và hạn chế người ngoại tỉnh có việc làm tốt hơn ở thành phố.

Do vậy, dự đoán rằng bất bình đẳng ngay tại các vùng nông thôn và các thành phố ở Việt Nam sẽ tăng lên nếu không có các chính sách phân phối đều công ăn việc làm và điều hoà tác động của chi phí giáo dục và chăm sóc sức khoẻ lên phúc lợi của người nghèo.

Việt Nam đã có được mức độ thành công phi thường trong cải thiện vị trí trong bảng xếp hạng giàu có quốc tế trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý một thực tế là Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ, có được các thị trường lớn trên thế giới sẽ rất quan trọng để duy trì một tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu cao và đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô.

Việc gia nhập WTO sẽ hướng Việt Nam được tiếp cận theo đúng quy chuẩn vào thị trường các nước chiếm tới 97% thương mại toàn cầu. Nhưng nó cũng sẽ mở cửa thị trường nội địa cho sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu, buộc các công ty Nhà nước hoạt động trong khu vực xuất khẩu phi truyền thống phải tăng tốc quá trình học hỏi và nâng cấp công nghệ.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể hỗ trợ cố gắng đó, thông qua việc các công ty nước ngoài đem đến những công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm thực tiễn quản lý.

Tuy vậy, chỉ riêng FDI thì không đủ. Việt Nam sẽ cần phải củng cố các chiến lược quốc gia để phát triển khả năng công nghệ trong nước, bao gồm cả việc chú trọng cải thiện chất lượng giáo dục cao học, những khuyến khích và sự hỗ trợ của Nhà nước để thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng cũng như các chính sách sáng tạo để các công ty trong nước hội nhập với dây chuyền sản xuất quốc tế.

Tiêu đề bài trình bày của tôi hôm nay bắt đầu bằng một câu hỏi: “Đổi mới kinh tế cho ai?”. Tôi chắc rằng đến đây các quý vị đã biết rõ câu trả lời của tôi rồi. Cải cách kinh tế cần cho tất cả mọi người. Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong xây dựng nền kinh tế, xã hội và những thể chế dân chủ trong công cuộc đổi mới. Nhưng tôi không nói quý vị cũng biết là giai đoạn khó khăn đang ở phía trước. Sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, một số thách thức đã được chuẩn bị kỹ nhưng một số khác sẽ gây ra những bất ngờ.

Thông điệp quan trọng nhất mà tôi muốn chuyển tới các bạn là đối phó với những thách thức sẽ trở nên dễ dàng hơn khi mọi cơ hội được tận dụng để thúc đẩy ý thức mạnh mẽ về tình đoàn kết toàn thể nhân dân Việt Nam. Giai đoạn tiếp theo của công cuộc đổi mới cần phải bao hàm sự phát triển của công dân xã hội dựa trên những quyền lợi dân sự, chính trị và xã hội phổ biến, kết hợp với nghĩa vụ chung đóng góp cho cộng đồng.

Quá trình hội nhập kinh tế có thể giống như một chiếc xe ôtô mới đẹp đẽ. Nó bóng lộn, hào nhoáng và rất hấp dẫn. Điều khiển bằng tri thức, kỹ năng và sự cẩn trọng, nó sẽ rất hữu dụng đưa anh tới đích muốn đến. Nhưng vào tay lái ẩu, nó có thể rất nguy hiểm, thậm chí gây tử vong. Vận hành nó cần sự chín chắn, thực tế và nhiều kỹ năng.

Dựa trên những thành tích đã đạt được của Việt Nam, tôi tuyệt đối tin rằng Việt Nam sẽ là một tay lái cừ khôi trong những năm tới đây. Lời khuyên duy nhất của tôi là: hãy bảo đảm rằng không một người nào bị bỏ lại phía sau!

Cải cách mạnh hơn để phát triển
TS. Lê Đăng Doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Ở Việt Nam đang có đòi hỏi bức xúc về cải cách. Nếu như chúng ta so sánh nước Pháp với Việt Nam, chúng ta thấy rằng nước Pháp khó khăn như thế nào trong cải cách Luật lao động.

Trong khi đó ở Việt Nam, người ta lại khao khát có nhiều cải cách hơn nữa, chống tham nhũng mạnh mẽ hơn nữa và công khai minh bạch nhiều hơn nữa như chứng kiến tại Quốc hội hiện nay.

Với việc gia nhập WTO, với nghị quyết của Đại hội Đảng, với sự thảo luận của quần chúng và công luận trong báo chí thời gian qua thì tôi muốn khẳng định là Việt Nam đang có quyết tâm và nỗ lực lớn để cải cách. Vấn đề là nguyện vọng đó của người dân phải được chuyển thành quyết tâm chính trị, phải được chuyển thành chính sách thích hợp, phải được tổ chức thực hiện.

Tôi đồng ý với quan điểm cho rằng con đường phát triển và tiềm năng của Việt Nam là tăng thêm năng lực cho người dân. Tức là công khai minh bạch nhiều hơn nữa, nâng cao trách nhiệm của bộ máy chính quyền đối với người dân và tiếng nói của người dân với chính quyền. Nếu làm được việc đó chắc chắn Việt Nam sẽ cải cách mạnh hơn.

Cũng có ý kiến cho rằng Việt Nam đang có nghịch lý, trong cải cách của Việt Nam luôn có tranh luận. Cải cách theo tôi ở đâu cũng có hai mặt bởi vì có ước vọng của người dân muốn cải cách, muốn nói lên tiếng nói của mình, có được sự bình đẳng chia sẻ. Tôi xin lưu ý rằng người dân Việt Nam là những người đấu tranh từ rất lâu, hi sinh rất nhiều. Thảo luận là việc tốt đẹp.

Theo tôi cần thảo luận với nhau để làm sao thúc đẩy cải cách trên những lĩnh vực mới, trong hoàn cảnh mới, với bối cảnh có cạnh tranh và mở cửa, hội nhập quốc tế tốt hơn.

Điều cuối cùng tôi muốn nói công cuộc cải cách không phải dễ dàng. Ví dụ như Luật Doanh nghiệp sau khi thực hiện năm 2000 đã bỏ được 186 giấy phép thì bây giờ lại có rất nhiều giấy phép được thiết lập. Số giấy phép hiện nay lên đến con số hơn 700, như vậy cần cải cách nữa. Nhưng cải cách lần này phải nằm trong khuôn khổ phù hợp với cam kết của WTO. Tôi muốn nhấn mạnh rằng một mình doanh nghiệp không thể đem lại được sự thay đổi như mong muốn. Bởi vì bên cạnh Luật Doanh nghiệp chúng ta còn cần phải thực hiện Luật cạnh tranh.


Hiện nay, Luật Cạnh tranh đã có nhưng thực hiện trong thực tế còn rất kém. Bên cạnh Luật Doanh nghiệp còn có luật điện, viễn thông, hàng không, dầu khí... Trong những luật ấy người ta thấy có rất nhiều giấy phép, nhiều quy định của cơ quan Nhà nước mà không rõ quyền lợi của người dân được như thế nào.

Tôi nghĩ quá trình cải cách như vậy là một quá trình đấu tranh liên tục, luôn luôn thúc đẩy để tiến lên. Nếu như khơi dậy, phát huy trí sáng tạo, sức mạnh của người dân thì cải cách và tăng trưởng của Việt Nam sẽ phát triển hơn. Việt Nam có thể tăng trưởng cao hơn nếu sáng tạo đó của người dân được thể hiện, tôn trọng và thực hiện đầy đủ hơn trong các chính sách chúng ta thực hiện tới đây.

Đổi mới phải hướng tới doanh nghiệp
Ông Pete Peterson, cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam

Việc tự do hoá kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam phải được tiếp tục với nhịp độ bằng hoặc hơn những gì có trong hai thập kỷ qua. Quá trình đổi mới sang “nền kinh tế thị trường” đã bắt đầu nhưng tiến trình chậm trễ của Việt Nam trong việc tư nhân hoá các doanh nghiệp Nhà nước chủ chốt (đa số trong số này là không sinh lợi) vẫn còn là một cản trở nghiêm trọng đối với việc có được những lợi ích trọn vẹn của khía cạnh này của chính sách.

Cần phải có một sự cam kết thực sự và có trách nhiệm đối với việc tư nhân hoá càng nhiều các doanh nghiệp Nhà nước càng tốt trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Nỗ lực này cần phải được xem là bước đầu tiên để giải phóng các bộ khỏi gánh nặng và sự phụ thuộc hiện thời vào các doanh nghiệp do bộ sở hữu và quản lý thường cung cấp ngân sách cho các hoạt động của bộ. Các bộ cũng như các cơ quan Chính phủ khác về cơ bản cần phải được cấp ngân sách từ ngân khố Nhà nước để bảo đảm tính minh bạch và độc lập một cách hợp lý.

Với chính sách thu thuế được cải tiến, các thủ tục hiệu quả hơn và hoạt động có sự phối hợp của Chính phủ, điều này khả thi hơn so với những gì mà bất kỳ ai trong Chính phủ cho đến nay có thể nhất trí. Một điều rõ ràng là việc tư nhân hoá phải được diễn ra trước khi một nền kinh tế thị trường thực sự có thể được xây dựng và với việc Việt Nam gia nhập WTO thì áp lực đẩy nhanh tư nhân hoá sẽ còn tăng lên.

Trong nỗ lực nhằm “san bằng sân chơi cho các doanh nghiệp” và đảm bảo sự thống nhất rộng hơn, Chính phủ phải ưu tiên cao cho việc hình thành một hệ thống điều chỉnh doanh nghiệp rõ ràng và vững chắc.

Trong khi hệ thống điều chỉnh ở một mức độ nào đó nên là chính sách “tự do kinh doanh” thì nó cũng nên đủ rộng để cho phép thực hiện phương thức thị trường tương đối mở để thúc đẩy cạnh tranh, năng suất và hiệu quả. Các quá trình đưa ra quyết định của Chính phủ và cơ quan lập pháp phải được tổ chức tốt hơn để đảm bảo cho Việt Nam có thể đáp lại các cơ hội kinh tế và chính trị khi các cơ hội này xuất hiện. Chính phủ cũng phải giải quyết một cách nghiêm túc các vấn đề liên quan đến hiện tượng tham nhũng, đảm bảo tính minh bạch nhiều hơn trong các cơ quan Chính phủ.

Việc Việt Nam sắp trở thành thành viên của WTO sẽ giúp thúc đẩy tiến trình Đổi mới, nhưng quá trình tư nhân hoá thực sự các doanh nghiệp Nhà nước phải nhanh hơn để nắm bắt những lợi thế và cơ hội kinh doanh từ tư cách thành viên WTO và quá trình toàn cầu hoá kinh tế nói chung.

Trong tương lai, Việt Nam sẽ phải chịu sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thế giới và cần tạo ra một môi trường chính trị, kinh doanh và công nghiệp có thể phản ứng nhanh chóng và hiệu quả trước những thách thức cạnh tranh phải đối đầu. Về mặt đó, kiểm soát chất lượng sẽ trở nên ngày càng quan trọng đối với các ngành công nghiệp Việt Nam...

Hà Linh thực hiện

Nguồn: http://www.vneconomy.com.vn, ngày 23/6/2006

Luật Phá sản... phá sản (23/6)

Có lẽ Luật Phá sản là luật ít được áp dụng nhất tại Việt Nam. Chủ đầu tư tư nhân ngại đưa công việc của mình ra tòa kinh tế để giải quyết theo Luật Phá sản đã đành, mà cả Nhà nước cũng không muốn áp dụng nó cho các doanh nghiệp của mình. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho luật không thể phát huy tác dụng.

Luật Phá sản lần đầu tiên được Quốc hội thông qua vào năm 1994, sau 10 năm nó đã được sửa đổi và bổ sung thêm 41 điều nhằm hoàn chỉnh những quy định mà các điều luật trước đó chưa bao quát hết. Thế nhưng, theo Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa, Giảng viên khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, nhìn dưới góc độ đón nhận của cộng đồng doanh nghiệp cũng như các cơ quan hành pháp và tư pháp, luật này hiện gần như đã... phá sản hoàn toàn.

Thẩm phán Phạm Xuân Thọ, Chánh tòa Kinh tế Tp.HCM, cho biết sau hơn 12 năm kể từ ngày Luật Phá sản ra đời, cả nước chỉ có 53 doanh nghiệp làm thủ tục phá sản tại tòa. Còn nếu tính từ khi Luật Phá sản sửa đổi có hiệu lực từ năm 2005, vỏn vẹn chỉ có hai doanh nghiệp phá sản theo luật này.

Tất nhiên những số liệu trên không phản ánh đúng tình trạng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, dẫn đến phá sản ở Việt Nam, nhưng nó cho thấy Luật Phá sản đã không thể đi vào cuộc sống. Ông Phạm Xuân Thọ cho rằng, nhà đầu tư trong nước chưa có thói quen dựa vào tòa án để giải quyết các vấn đề phát sinh khi phá sản doanh nghiệp. Thêm vào đó, tâm lý lo sợ mang tiếng bị phá sản cũng khiến hầu hết nhà đầu tư đã không làm thủ tục phá sản tại tòa án, mà tự giải quyết nội bộ với nhau.

Nhưng nếu loại trừ yếu tố thói quen và tâm lý, thì số trường hợp tuyên bố phá sản tại tòa án trong hơn 12 năm qua cũng không thể thấp như vậy, nếu không có sự can thiệp của các cơ quan quản lý nhà nước.

Bà Phạm Chi Lan, thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, cho rằng số doanh nghiệp nhà nước đủ tiêu chuẩn phá sản trong những năm qua không phải ít. Nhưng thay vì để cho phá sản, Nhà nước lại can thiệp thông qua các biện pháp khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ nhằm dựng lại những đơn vị này. Bằng không thì thu xếp để những doanh nghiệp gần như đã chết trên thực tế được chui vào núp bóng các tổng công ty, công ty mẹ - công ty con hoặc cho vào tập đoàn.

Ngoài ra, theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, cố vấn cao cấp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tình trạng hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế cũng góp phần làm cho số trường hợp phá sản theo Luật Phá sản rất thấp. Không ít trường hợp lẽ ra phải giải quyết theo Luật Phá sản thì chủ doanh nghiệp lại bị truy tố và xét xử theo luật Hình sự.

Luật Phá sản không chỉ là khuôn khổ pháp lý để làm thủ tục khai tử, mà nó còn tạo ra cơ hội tái sinh cho doanh nghiệp. Hơn thế nữa, đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, luật còn giúp nhà đầu tư giới hạn rủi ro, giới hạn phạm vi trách nhiệm của mình trong phạm vi tài sản của doanh nghiệp. Nhưng các yếu tố tích cực kể trên vẫn chưa được phát huy trong thực tế.

“Động lực để xin phá sản doanh nghiệp, nhất là khu vực doanh nghiệp nhà nước, không có”, ông Lê Đăng Doanh nhấn mạnh. Ông giải thích: “Đối với doanh nghiệp nhà nước, bản thân giám đốc và ban lãnh đạo sợ phá sản, vì làm như vậy họ sẽ bị mất chức cùng những quyền lợi đằng sau nó. Vì vậy, họ phải tìm cách ‘chạy’ với cơ quan chủ quản để tránh bị phá sản”.

Bên cạnh đó, ông Phạm Duy Nghĩa cũng cho rằng các cơ quan hành pháp và ngân hàng ở Việt Nam thường khó chấp nhận tính hữu hạn về trách nhiệm của doanh nghiệp. Các cơ quan và đơn vị này có xu hướng bắt buộc nhà đầu tư phải dùng tài sản cá nhân để giải quyết các khoản nợ của công ty. Có lẽ đây là lý do chính dẫn đến nhiều trường hợp phá sản không được xử tại tòa kinh tế, mà chuyển sang tòa hình sự.

Theo bà Phạm Chi Lan: “Sẽ rất nguy hiểm cho các doanh nghiệp khác nếu Nhà nước cố tìm cách duy trì sự sống cho những công ty mà lẽ ra đã phải phá sản. Các công ty này như những con bệnh dễ lây lan và có thể làm chết nhiều doanh nghiệp khác”.

Việc trì hoãn hoặc ngăn chặn cho phá sản dễ khiến các tổ chức tín dụng và nhiều doanh nghiệp khác bị cuốn vào cảnh nợ nần giắt dây lẫn nhau, như đã từng xảy ra với các doanh nghiệp quốc doanh trước đây và Nhà nước phải chi ra hàng ngàn tỉ đồng để giải quyết nhằm tránh đổ vỡ dây chuyền.

Đó là chưa kể việc cho các công ty thua lỗ nặng sáp nhập vào tổng công ty nhà nước, giao trách nhiệm cứu vớt cho các thành viên khỏe mạnh khác, đã gián tiếp làm suy yếu tiềm lực phát triển của các tổng công ty cũng như từng thành viên, gây nên bất hòa trong nội bộ.

Nguồn: http://www.vneconomy.com.vn, ngày 23/6/2006