VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Số liệu thống kê

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 01 năm 2015

30/01/2015 - 223 Lượt xem

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa đông xuân và gieo trồng cây vụ đông trên cả nước. Tính đến thời điểm 15/01/2015, cả nước gieo cấy được 1892,6 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 98,2% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 56,1 nghìn ha, bằng 85,2%; các địa phương phía Nam gieo cấy 1836,5 nghìn ha, bằng 98,6%, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy 1511,7 nghìn ha, bằng 99,6%.

Tại các địa phương phía Bắc, thời tiết thuận lợi tạo điều kiện cho diện tích mạ và diện tích lúa đã gieo cấy phát triển tốt. Tại các địa phương phía Nam, do ảnh hưởng của thời tiết se lạnh vào đêm và sáng sớm nên sâu bệnh có điều kiện phát triển. Từ đầu vụ đã có gần 120 nghìn ha lúa bị nhiễm sâu bệnh, trong đó phổ biến là bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá và rầy nâu. Hiện nay, phần lớn trà lúa đông xuân sớm vùng đồng bằng Sông Cửu Long đang trong giai đoạn đẻ nhánh và làm đòng, các địa phương tích cực thực hiện các biện pháp nhằm phòng trừ sâu bệnh có thể phát sinh, tạo điều kiện để lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Ngành Nông nghiệp triển khai đề án tái cơ cấu ngành lúa gạo nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và phát triển bền vững. Theo đó, các địa phương tập trung tăng cường chuyển giao, ứng dụng các giống lúa có giá trị thương mại cao, xây dựng và phát triển chương trình thâm canh lúa đồng bộ, mở rộng chương trình cánh đồng mẫu lớn nhằm tăng năng suất, chất lượng gạo thành phẩm.

Cùng với việc gieo cấy lúa đông xuân, tính đến trung tuần tháng Một, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 186,5 nghìn ha ngô, bằng 105% cùng kỳ năm trước; 52,5 nghìn ha khoai lang, bằng 104%; 37,1 nghìn ha đậu tương, bằng 93,2%; 31,9 nghìn ha lạc, bằng 90,5%; 317,9 nghìn ha rau, đậu, bằng 105,3%.

Chăn nuôi gia súc trong tháng tuy bị ảnh hưởng của đợt rét đậm, rét hại ở một số huyện vùng núi phía Bắc nhưng do công tác phòng chống đói, rét cho đàn trâu, bò của một số địa phương được chuẩn bị khá chu đáo và kịp thời nên hiện tượng trâu, bò chết rét không xảy ra trên diện rộng và chủ yếu là trâu, bò già. Ước tính đàn trâu trong tháng cả nước giảm khoảng 2% - 2,5% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò tăng 1,5% - 2%; đàn bò sữa tiếp tục phát triển khá, tăng 2% - 2,5%. Chăn nuôi lợn và gia cầm tương đối ổn định. Ước tính số đầu lợn của cả nước trong tháng tăng khoảng 2% - 2,5% so với cùng kỳ năm trước, số gia cầm tăng 3% - 3,5%. Tính đến thời điểm 21/01/2015, không có địa phương nào còn dịch lợn tai xanh và dịch cúm gia cầm chưa qua 21 ngày, dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày còn ở tỉnh Sơn La.

Tiến độ gieo trồng cây nông nghiệp đến ngày 15 tháng 01 năm 2015

Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào trồng rừng, chăm sóc, khoanh nuôi tái sinh và bảo vệ rừng; đồng thời triển khai công tác chuẩn bị cho Tết trồng cây Xuân Ất Mùi. Trong tháng, số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 571 nghìn cây, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm 2014; sản lượng gỗ khai thác đạt 396 nghìn m3, tăng 3,7%; sản lượng củi khai thác đạt 2,6 triệu ste, tăng 2,7%.

Do thời tiết đang mùa khô hanh nên xảy ra hiện tượng cháy rừng tại một số địa phương vùng Trung và Nam Bộ, đặc biệt một số khu vực thuộc các tỉnh vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có nguy cơ cháy rừng ở vấp IV - cấp nguy hiểm và cấp V - cấp cực kỳ nguy hiểm (Kon Tum, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Bình Phước, Đồng Nai....). Tổng diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng là 41,8 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy là 21,3 ha; diện tích rừng bị chặt, phá là 20,5 ha.

Thủy sản

Sản lượng thủy sản tháng Một ước tính đạt 412,4 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 302,3 nghìn tấn, tăng 2,8%; tôm đạt 42,8 nghìn tấn, tăng 7,5%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 187,6 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 131,2 nghìn tấn, tăng 1,1%; tôm đạt 32,6 nghìn tấn, tăng 9%. Sang đầu năm nay, nuôi cá tra có những tín hiệu đáng mừng khi giá cá tra nhích lên và số đơn đặt hàng cá tra tăng cao. Sản lượng thu hoạch cá tra tại một số địa phương tăng so với cùng kỳ năm trước: Bến Tre 11 nghìn tấn, tăng 8,1%; Cần Thơ đạt 8,2 nghìn tấn, tăng 5%. Nuôi tôm đang trong thời kỳ thu hoạch trái vụ và chuẩn bị cho vụ thả nuôi mới. Sản lượng thu hoạch tôm nuôi trong tháng đạt 32,6 nghìn tấn, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước. Nuôi tôm thẻ chân trắng tiếp tục phát triển. Một số tỉnh có sản lượng tôm thẻ chân trắng trong tháng tăng cao: Bến Tre đạt 2035 tấn, tăng 198,8% so với cùng kỳ năm 2014; thành phố Hồ Chí Minh 1274 tấn, tăng 25,3%; Kiên Giang 785 tấn, tăng 21,9%; Bạc Liêu 784 tấn, tăng 152,9%;

Sản lượng thủy sản khai thác tháng Một ước tính đạt 224,8 nghìn tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2014, trong đó cá đạt 171,1 nghìn tấn, tăng 4,1%; tôm đạt 10,2 nghìn tấn, tăng 3%. Sản lượng thủy sản biển khai thác trong tháng đạt 212,4 nghìn tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước.

Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Một ước tính giảm 2,8% so tháng trước, tăng cao ở mức 17,5% so với cùng kỳ năm trước do thời gian nghỉ Tết Nguyên Đán năm 2014 tập trung vào tháng Một. Trong các ngành công nghiệp cấp I, ngành khai khoáng tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 3,8 điểm phần trăm; ngành chế biến, chế tạo tăng khá cao ở mức 19,4%, đóng góp 12,3 điểm phần trăm; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 20,9%, đóng góp 1,2 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 9,5%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm.

Một số ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sản xuất trong tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất xe có động cơ tăng 57,6%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 46,4%; dệt tăng 33,8%; sản xuất kim loại tăng 31,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 30,8%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 29,2%. Một số ngành có mức tăng khá: Khai khoáng khác tăng 23,6%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 22,9%; sản xuất và phân phối điện tăng 20,9%; sản xuất thiết bị điện tăng 19,8%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 19,6%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 17,7%. Một số ngành có mức tăng thấp: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 16,1%; khai thác than cứng và than non tăng 13,1%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 10,9%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 10,1%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng 9,6%; sản xuất thuốc lá tăng 8,2%; sản xuất trang phục tăng 6,6%; sản xuất đồ uống tăng 6,2%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tháng Một năm nay ước tính tăng cao so với cùng kỳ: Điện thoại di động tăng 91,1%; ti vi tăng 88,7%; sắt thép thô tăng 71%; ô tô tăng 69,6%; sơn hóa học tăng 40,1%; thép thanh, thép góc tăng 35,7%; thức ăn cho thủy sản tăng 29%; xi măng tăng 27,1%; điện sản xuất tăng 24,5%. Một số sản phẩm có mức tăng khá: Sữa tươi tăng 21,9%; giày, dép da tăng 19,8%; phân hỗn hợp N.P.K tăng 18,5%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Thép cán tăng 17,8%; thuỷ hải sản chế biến tăng 15,4%; vải dệt từ sợi nhân tạo tăng 14,8%; bột ngọt tăng 14,1%; than đá tăng 13,1%; dầu thô khai thác tăng 10,6%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 9,7%; thuốc lá điếu tăng 8,2%; xe máy tăng 5,3%; bia tăng 4,4%; quần áo mặc thường tăng 3,6%; đường kính giảm 4,7%; khí hóa lỏng giảm 10,9%; sữa bột giảm 18%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Một so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Thái Nguyên tăng 523,5%, do nhà máy Samsung Electronic Thái Nguyên mở rộng quy mô sản xuất; Quảng Nam tăng 46,4%; Bình Dương tăng 19,4%; Đà Nẵng tăng 19,2%; Vĩnh Phúc tăng 19,1%; Hải Phòng tăng 19%; Đồng Nai tăng 17,8%; Hà Nội tăng 15,3%; Cần Thơ tăng 14%; Quảng Ninh tăng 13,7%; Hải Dương tăng 12,1%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 9,2%; Bà Rịa- Vũng Tàu tăng 1,6%; Quảng Ngãi giảm 22,4%; Bắc Ninh giảm 29,2%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12/2014 tăng 5,4% so với tháng trước tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2014, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11% so với năm 2013. Các ngành có chỉ số tiêu thụ năm 2014 tăng cao so với năm trước: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 46%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 23,7%; sản xuất xe có động cơ tăng 16,2%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất thiết bị điện tăng 10,8%; sản xuất đồ uống tăng 6,4%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 5,5%; sản phẩm từ cao su và plastic tăng 5%; sản xuất thuốc lá giảm 9,6%.

Tại thời điểm 01/01/2015, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,6% so với cùng thời điểm năm 2014, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 1,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 0,3%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 8,1%; sản xuất thiết bị điện giảm 13,6%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất giảm 15,4%; sản xuất thuốc lá giảm 34,8%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn nhiều so với mức tăng chung: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 100,1%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 74,4%; sản xuất đồ uống tăng 59,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 37,8%; sản xuất kim loại tăng 32,4%; sản xuất trang phục tăng 24,5%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 12 tháng năm 2014 là 73,8%, trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho bình quân cao: Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu 151,3%; sản xuất chế biến thực phẩm 93,2%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn 90,6%; sản xuất kim loại 86,8%.

Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/01/2015 tăng 0,5% so với tháng trước; tăng 7% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,5%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 3,8% và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 11,1%. Tại thời điểm trên, chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp khai khoáng giảm 4,8% so với cùng thời điểm năm trước; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,1%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện tăng 0,7%; công nghiệp cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,6%.

Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp tại thời điểm 01/01/2015 so với cùng thời điểm năm trước của các tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thái Nguyên tăng 124,6%; Hải Dương tăng 15,6%; Bình Dương tăng 6,7%; Đồng Nai tăng 6,4%; Quảng Nam tăng 5,5%; Hải Phòng tăng 4,1%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 3,8%; Hà Nội tăng 3,3%; Vĩnh Phúc tăng 2,8%; Đà Nẵng tăng 1,5%; Cần Thơ tăng 0,4%; Bà Rịa Vũng Tàu giảm 1%; Quảng Ninh giảm 1,1%; Quảng Ngãi giảm 2%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp

Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp

 

Chỉ số tiêu thụ và tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Doanh nghiệp đăng ký thành lập mới

Trong tháng 01/2015, số doanh nghiệp thành lập mới của cả nước là 6867 doanh nghiệp với số vốn đăng ký 31,7 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ cùng kỳ năm 2014 về số doanh nghiệp và giảm 27,5% về số vốn đăng ký. Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp trong tháng đạt 4,6 tỷ đồng, giảm 20,4%; số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới là 103, 5 nghìn người, giảm 7,4%.

Trong tháng Một, một số ngành, lĩnh vực hoạt động có sự gia tăng về doanh nghiệp thành lập mới so với cùng kỳ năm trước: Nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 147,6%; giáo dục và đào tạo tăng 44,9%; kinh doanh bất động sản tăng 41,9%; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác tăng 30,8%. Một số ngành có số doanh nghiệp thành lập mới giảm so với cùng kỳ năm 2014: Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 42,9%; sản xuất, phân phối điện, nước, ga giảm 36,9%; khai khoáng giảm 19%; bán buôn; bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy giảm 14,6%.

Doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động và quay trở lại hoạt động

Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động kinh doanh trong tháng của cả nước là 993 doanh nghiệp, giảm 3,4% so với cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp giải thể phần lớn là những doanh nghiệp có quy mô vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng. Số doanh nghiệp gặp khó khăn, tạm ngừng hoạt động là 9772 doanh nghiệp, tăng 22,9%, bao gồm: 3367 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn; 6405 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 2872 doanh nghiệp.

Đầu tư

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Một ước tính đạt 12996 tỷ đồng, bằng 6,6% kế hoạch năm và tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2014, gồm có:

- Vốn trung ương quản lý đạt 2602 tỷ đồng, bằng 6,4% kế hoạch năm và tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là 411 tỷ đồng, bằng 6% và tăng 11,7%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 198 tỷ đồng, bằng 6,9% và giảm 1,5%; Bộ Y tế 97 tỷ đồng, bằng 6,1% và tăng 90,2%; Bộ Xây dựng 86 tỷ đồng, bằng 5,6% và tăng 8,9%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 47 tỷ đồng, bằng 6,9% và giảm 2,1%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 46 tỷ đồng, bằng 5,4% và tăng 12,2%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 37 tỷ đồng, bằng 6,3% và tăng 19,4%; Bộ Công Thương 25 tỷ đồng, bằng 5,8% và tăng 19%; Bộ Khoa học và Công nghệ 20 tỷ đồng, bằng 6,6% và tăng 2,6%; Bộ Thông tin và Truyền thông 15 tỷ đồng, bằng 8,3% và giảm 6,2%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 10394 tỷ đồng, bằng 6,7% kế hoạch năm và tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2014. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 7392 tỷ đồng, bằng 6,2% và tăng 9,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 2372 tỷ đồng, bằng 7,5% và tăng 13,6%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 631 tỷ đồng, bằng 10,5% và tăng 1,1%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 1837 tỷ đồng, bằng 9,5% kế hoạch năm và tăng 22% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 540 tỷ đồng, bằng 2,8% và tăng 4,6%; Bà Rịa - Vũng Tàu 496 tỷ đồng, bằng 9,3% và giảm 4,6%; Nghệ An 395 tỷ đồng, bằng 10,4% và tăng 3,1%; Thanh Hóa 285 tỷ đồng, bằng 8,4% và tăng 8,1%; Đà Nẵng 280 tỷ đồng, bằng 5,4% và tăng 5,1%; Hà Tĩnh 260 tỷ đồng, bằng 9,9% và tăng 61,3%.

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/01/2015 thu hút 44 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 392,2 triệu USD, tăng 10% về số dự án và tăng 85,8% về số vốn so với cùng kỳ năm 2014. Đồng thời có 19 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước được cấp vốn bổ sung với 271,2 triệu USD. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 663,4 triệu USD, tăng 67,1% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tháng Một năm nay ước tính đạt 505 triệu USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2014.

Trong tháng Một, riêng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút các nhà đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký đạt 605,7 triệu USD, chiếm 91,3% tổng vốn đăng ký; các ngành còn lại đạt 57,7 triệu USD, chiếm 8,7%.

Cả nước có 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới trong tháng, trong đó thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu với số vốn đăng ký đạt 328,5 triệu USD, chiếm 83,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Thanh Hóa 20 triệu USD, chiếm 5,1%; Bình Dương 10 triệu USD, chiếm 2,5%; Bắc Giang 8,1 triệu USD, chiếm 2,1%.

Trong số 13 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới tại Việt Nam trong tháng Một, Quần đảo Virgin thuộc Anh là nhà đầu tư lớn nhất với 305,3 triệu USD, chiếm 77,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 34,5 triệu USD, chiếm 8,8%; Vương quốc Anh 20 triệu USD, chiếm 5,1%; Nhật Bản 17,1 triệu USD, chiếm 4,4%...

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước

Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước 15 ngày đầu tháng 01/2015 ước tính đạt 35,3 nghìn tỷ đồng, bằng 3,9% dự toán năm, trong đó thu nội địa 25,5 nghìn tỷ đồng, bằng 4%; thu từ dầu thô 3,5 nghìn tỷ đồng, bằng 3,8%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 6,2 nghìn tỷ đồng, bằng 3,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 10,1 nghìn tỷ đồng, bằng 4,6% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 4,8 nghìn tỷ đồng, bằng 3,4%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 4,7 nghìn tỷ đồng, bằng 3,9%; thu thuế thu nhập cá nhân 1,6 nghìn tỷ đồng, bằng 3,1%; thu thuế bảo vệ môi trường 320 tỷ đồng, bằng 2,5%; thu tiền sử dụng đất 2,5 nghìn tỷ đồng, bằng 6,4%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước 15 ngày đầu tháng Một ước tính đạt 42,2 nghìn tỷ đồng, bằng 3,7% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển trên 6,5 nghìn tỷ đồng, bằng 3,4% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 6,5 nghìn tỷ đồng, bằng 3,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể ước tính đạt 30,1 nghìn tỷ đồng, bằng 3,9%; chi trả nợ và viện trợ 5,5 nghìn tỷ đồng, bằng 3,7%.

Thương mại, giá cả và du lịch

Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

Tháng Một năm nay là tháng trước tết Nguyên đán Ất Mùi nên nhu cầu mua sắm hàng hoá và tiêu dùng của dân cư tăng khá. Ngoài mạng lưới thương nghiệp phục vụ ổn định như trung tâm thương mại và siêu thị, nhiều điểm bán hàng lưu động tại các địa phương được tăng cường để bảo đảm cung ứng đầy đủ hàng hoá trong dịp Tết Nguyên đán.

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Một ước tính đạt 275,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm 2014, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Một tăng 13%, loại trừ yếu tố giá tăng 11,9%, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước đạt 29,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,8% và tăng 13,7%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 236,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 86% và tăng 12,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 8,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,2% và tăng 17,1%.

Xét theo ngành hàng, doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng Một đạt 211,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,7%, tăng 3,1% so với tháng trước và tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước. Mức tăng của một số ngành hàng so với tháng trước như sau: Hàng may mặc tăng 6,2%, là nhóm hàng tăng cao nhất; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 5,7%; lương thực, thực phẩm tăng 4%; phương tiện đi lại và xăng dầu tăng nhẹ.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 31 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,3%, tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có tốc độ tăng cao so với tháng trước như sau: Nghệ An tăng 13,5%; An Giang tăng 10,9%; Quảng Bình tăng 7%; Đắk Lắk tăng 6,7%; Đồng Tháp tăng 6,6%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 5,8%; riêng Hà Nội tăng nhẹ 1,8%.

Doanh thu hoạt động du lịch lữ hành đạt 2,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,8%, giảm 1,8% so với tháng trước, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Hà Nội giảm 1,5% và tăng 2%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 1,6% và giảm 10%.

Doanh thu của các hoạt động dịch vụ khác đạt 30,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,2%, giảm 4,2% so với tháng trước và tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, doanh thu của Hà Nội tăng 1,2%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 2,5%; Đà Nẵng giảm mạnh ở mức 15,8%. Xét theo ngành hoạt động, ngành có doanh thu đạt mức tăng cao nhất so với tháng trước là nghệ thuật vui chơi và giải trí với mức tăng 8,7%; ngành có doanh thu giảm mạnh nhất là dịch vụ kinh doanh bất động sản với mức giảm 11,5%.

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng Mười Hai năm 2014 đạt 12,9 tỷ USD, thấp hơn 224 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại các loại và linh kiện thấp hơn 466 triệu USD; điện tử máy tính thấp hơn 218 triệu USD; hàng dệt may cao hơn 190 triệu USD; giày dép cao hơn 117 triệu USD. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện năm 2014 đạt 150,2 tỷ USD, tăng 144 triệu USD so với ước tính.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Một năm nay ước tính đạt 12,9 tỷ USD, tăng 0,2% so với tháng trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 4,4 tỷ USD, tăng 3,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 8,2 tỷ USD, tăng 0,1%; dầu thô đạt 290 triệu USD, giảm 30%, chủ yếu do giá xuất khẩu dầu thô giảm 21,1% so với tháng trước. Một số mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch tăng cao so với tháng trước: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 34,6%; hạt tiêu tăng 20,2%; gạo tăng 13,3%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 10,9%; sắn và sản phẩm của sắn tăng 8,4%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảm nhiều: Rau quả giảm 31,9%; than đá giảm 31,6%; dầu thô giảm 30%; thủy sản giảm 20,8%; hóa chất giảm 19,8%; chè giảm 17,7%; xăng dầu giảm 16,8%; sản phẩm chất dẻo giảm 13,3%; sắt thép giảm 12,5%; hạt điều giảm 12,4%.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Một năm nay tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 12,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 8,2%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện tăng 62,2%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 27,7%; hạt điều tăng 26,9%; dây điện và cáp điện tăng 26,4%; giày dép 23,2%; sắn và sản phẩm của sắn tăng 20,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác tăng 19,7%; cao su tăng 18,4%; chè tăng 17,4%; sắt thép tăng 11,6%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảm nhiều: Xăng dầu giảm 54,9%, chủ yếu do giá xuất khẩu dầu thô giảm 56,7% so với cùng kỳ năm 2014; than đá giảm 46,1%; phương tiện vận tải và phụ tùng giảm 42,2%; dầu thô giảm 36,5%; hạt tiêu giảm 20,6%.

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu tháng Một năm 2015: Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 2,6 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2014; EU đạt 2,4 tỷ USD, tăng 10,5%; ASEAN đạt 1,5 tỷ USD, tăng 3,7%; Trung Quốc đạt 1,4 tỷ USD, giảm 2,5%. Nhật Bản đạt1,3 tỷ USD, tăng 4,9%; Hàn Quốc đạt 610 triệu USD, tăng 13,5%.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng Mười Hai năm 2014 đạt 14 tỷ USD, cao hơn 38 triệu USD so với số ước tính, trong đó sắt thép cao hơn 173 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác cao hơn 108 triệu USD; điện thoại các loại và linh kiện thấp hơn 119 triệu USD; vải thấp hơn 75 triệu USD. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện năm 2014 đạt 148,1 tỷ USD, tương đương số ước tính.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Một ước tính đạt 13,4 tỷ USD, giảm 4,5% so với tháng trước, bao gồm khu vực đầu tư nước ngoài đạt 7,8 tỷ USD, giảm 2,4%; khu vực kinh tế trong nước đạt 5,6 tỷ USD, giảm 7,3%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm nhiều: Lúa mỳ giảm 33%; dầu mỡ động thực vật giảm 25,4%; tân dược giảm 25%; sắt thép giảm 22,1%; xăng dầu giảm 19,2%; ô tô giảm 19% (ô tô nguyên chiếc giảm 33,5%); hóa chất giảm 18,4%; chất dẻo giảm 13,4%; giấy các loại giảm 10,5%.

Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu tháng Một năm nay tăng 35,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực đầu tư nước ngoài tăng 41,4%; khu vực kinh tế trong nước tăng 28%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước: Ô tô tăng 116,5% (ô tô nguyên chiếc tăng 144,5%); phương tiện vận tải khác và phụ tùng tăng 72,4%; sắt thép tăng 65,5%; sản phẩm từ dầu mỏ tăng 59,3%; phân bón tăng 57%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 50,3%; điện thoại các loại và linh kiện; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác cùng tăng 50%; cao su tăng 46,5%; sản phẩm chất dẻo tăng 43,6%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép tăng 43,2%; kim loại thường tăng 38,7%; vải tăng 38,6%; sản phẩm hóa chất tăng 30%; sợi dệt tăng 29,8%; xe máy và linh kiện, phụ tùng tăng 29,6%; giấy các loại tăng 21,6%; thuốc trừ sâu tăng 21,2%.

Về thị trường hàng hóa nhập khẩu tháng Một năm 2015: Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 4,2 tỷ USD, tăng mạnh với 47,1% so với cùng kỳ năm 2014; ASEAN đạt 2 tỷ USD, tăng 26,6%; Hàn Quốc đạt 1,9 tỷ USD, tăng 12,6%; Nhật Bản đạt 1,2 tỷ USD, tăng 66,6%; EU đạt 788,2 triệu USD, tăng 32,4%; Hoa Kỳ đạt 580 triệu USD, tăng 34,1%.

Tháng Mười Hai năm 2014 nhập siêu gần 1,2 tỷ USD, tăng 260 triệu USD so với số ước tính. Tính chung năm 2014, xuất siêu đạt 2,1 tỷ USD, tăng 100 triệu USD so với ước tính. Nhập siêu tháng Một ước tính 500 triệu USD, bằng 3,9% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu gần 1,2 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 690 triệu USD.

Hàng hóa xuất khẩu

Hàng hóa nhập khẩu

Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Một giảm 0,2% so với tháng trước, chủ yếu do giá xăng, dầu trong nước được điều chỉnh giảm hai đợt (22/12/2014 và 06/01/2015) đã tác động làm giá nhóm giao thông giảm mạnh ở mức 3,96%, đóng góp 0,35% vào mức giảm chung của CPI. Ngoài ra, giá gas giảm từ thời điểm 01/01/2015 cũng ảnh hưởng đến CPI tháng Một năm nay. Một số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có giá giảm so với tháng trước: Nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 1,09%; bưu chính viễn thông giảm 0,07%.

Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có giá tăng nhẹ so với tháng trước: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,51%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,37%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,29%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,28% (Lương thực tăng 0,03%; thực phẩm tăng 0,42%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,11%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,18%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,13%; giáo dục tăng 0,08%.

Chỉ số giá vàng tháng 01/2015 tăng 0,55% so với tháng trước; giảm 1,41% so với cùng kỳ năm 2014. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 01/2015 tăng 0,23% so với tháng trước; tăng 1,33% so với cùng kỳ năm 2014.

Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 1 năm 2015

Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách tháng Một ước tính đạt 272 triệu lượt khách, tăng 5,4% và 12 tỷ lượt khách.km, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2014, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 2,6 triệu lượt khách, giảm 1,9% và 3 tỷ lượt khách.km, tăng 5,6%; vận tải địa phương đạt 269,4 triệu lượt khách, tăng 5,4% và 9 tỷ lượt khách.km, tăng 4,2%. Vận tải hành khách đường bộ tháng Một ước tính đạt 257,2 triệu lượt khách, tăng 5,6% và 8,8 tỷ lượt khách.km, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước; đường hàng không đạt 1,6 triệu lượt khách, tăng 0,3% và 2,6 tỷ lượt khách.km, tăng 4,6%; đường biển đạt 452,2 nghìn lượt khách, tăng 2,1% và 21,5 triệu lượt khách.km, tăng 1,2%; riêng đường sắt đạt 0,8 triệu lượt khách, giảm 6,3% và 0,3 tỷ lượt khách.km, tăng 17,3%.

Vận tải hàng hóa tháng Một ước tính đạt 86,5 triệu tấn, tăng 3,8% và 18,3 tỷ tấn.km, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải trong nước đạt 84,6 triệu tấn, tăng 4,1% và 7,1 tỷ tấn.km, tăng 4,4%; vận tải ngoài nước đạt 2 triệu tấn, giảm 5,6% và 11,2 tỷ tấn.km, giảm 0,4%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 66,5 triệu tấn, tăng 4,1% và 3,6 tỷ tấn.km, tăng 4,8%; đường sông đạt 15 triệu tấn, tăng 4,7% và 3,1 tỷ tấn.km, tăng 4,3%; đường biển đạt 4,5 triệu tấn, giảm 3,3% và 11,3 tỷ tấn.km, giảm 0,5%; đường sắt đạt 0,5 triệu tấn, tăng 11,1% và 0,3 tỷ tấn.km, tăng 10,7%.

Vận tải hành khách và hàng hoá

Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Một ước tính đạt 700,7 nghìn lượt người, giảm 9,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 561,9 nghìn lượt người, giảm 9,1%; đến bằng đường bộ đạt 131,9 nghìn lượt người, giảm 12,3%; đến bằng đường biển đạt 6,9 nghìn lượt người, giảm 9,9%.

Trong tháng, khách đến nước ta từ châu Á đạt 439,2 nghìn lượt người, giảm 3,4% so với cùng kỳ năm trước. Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có khách đến nước ta giảm nhiều: Trung Quốc 119,5 nghìn lượt người, giảm 24,7%; Nhật Bản 57,6 nghìn lượt người, giảm 0,4%; Cam-pu-chia 30 nghìn lượt người, giảm 4,2%; Đài Loan 29,1 nghìn lượt người, giảm 7,6%; Ma-lai-xi-a 25,3 nghìn lượt người, giảm 1,8%; Thái Lan 19 nghìn lượt người, giảm 21%. Một số quốc gia có khách đến nước ta tăng: Hàn Quốc 116,5 nghìn lượt người, tăng 41,5%; Xin-ga-po 19,2 nghìn lượt người, tăng 16,4%.

Khách đến nước ta từ châu Âu ước tính đạt 117,1 nghìn lượt người, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số quốc gia có lượng khách đến giảm: Nga 34,7 nghìn lượt người, giảm 28,7%; Pháp 18,8 nghìn lượt người, giảm 5,3%; Anh 18,1 nghìn lượt người, giảm 3,9%; Đức 14,2 nghìn lượt người, giảm 3,4%. Một số quốc gia có lượng khách đến nước ta tăng: I-ta-li-a 4,7 nghìn lượt người, tăng 12,7%; Hà Lan 4,6 nghìn lượt người, tăng 0,9%.

Khách đến từ châu Mỹ đạt 59,1 nghìn lượt người, giảm 9,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hoa Kỳ đạt 47,8 nghìn lượt người, giảm 7,8%. Khách đến từ châu Úc đạt 43,5 nghìn lượt người, giảm 13,5% so với cùng kỳ năm 2014, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 39,6 nghìn lượt người, giảm 14,6%.

Khách quốc tế đến Việt Nam

Một số tình hình xã hội

Thiếu đói trong nông dân

Trong tháng Một (tính đến ngày 20/01/2015), cả nước có 3,4 nghìn hộ thiếu đói, tăng 25,9% so với tháng trước, tương ứng với 14,6 nghìn nhân khẩu thiếu đói, tăng 24,7%. So với cùng kỳ năm 2014, số hộ thiếu đói giảm 89,4% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 89,1%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, trong tháng các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói gần 250 tấn lương thực.

Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong tháng Một, cả nước có hơn 1,6 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2014; gần 1,6 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, giảm 31,2%; 04 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút, giảm 02 trường hợp; 01 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu, giảm 01 trường hợp.

Trong tháng đã phát hiện 1,3 nghìn trường hợp nhiễm HIV, tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 17/01/2015 là 224,8 nghìn người, trong đó 73,6 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử vong do AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 74,9 nghìn người.

Trong tháng Một, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 05 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, làm 319 người bị ngộ độc, trong đó 05 trường hợp tử vong.

Tai nạn giao thông

Từ thời điểm 16/12/2014 đến 15/01/2015, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 2171 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 952 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1219 vụ va chạm giao thông, làm 781 người chết; 583 người bị thương và 1464 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 8,7% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 6%; số vụ va chạm giao thông giảm 10,8%); số người chết giảm 13,2%; số người bị thương giảm 1,5% và số người bị thương nhẹ giảm 9,1%. Bình quân 01 ngày trong tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 70 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 31 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 39 vụ va chạm giao thông, làm 25 người chết, 19 người bị thương và 47 người bị thương nhẹ.

Thiệt hại do thiên tai

Thiên tai xảy ra trong tháng gây thiệt hại về tài sản, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư của một số địa phương: Lào Cai, Sơn La, Bình Thuận, Tây Ninh, Bến Tre và Cà Mau. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai làm hơn 100 ngôi nhà bị ngập, sạt lở, tốc mái; 7 ha hoa màu và 2,4 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng; hơn 9,9 nghìn m3 đất, đá, bê tông đường bị sạt lở, cuốn trôi. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính khoảng 20,6 tỷ đồng.

Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường

Từ đầu năm đến thời điểm 15/01/2015, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 241 vụ cháy, nổ nghiêm trọng, làm 16 người chết và 13 người bị thương, tổng giá trị thiệt hại 64,8 tỷ đồng. Trong tháng, cơ quan chức năng đã phát hiện 455 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường, trong đó 317 vụ bị xử lý với tổng số tiền phạt hơn 9,2 tỷ đồng.

Nguồn: GSO