VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

N%C3%B4ng%20nghi%E1%BB%87p%20-%20N%C3%B4ng%20th%C3%B4n%20-%20N%C3%B4ng%20d%C3%A2n

Hệ thống khuyến nông VN (27/2/1993 - 27/2/2013): Khuyến nông Việt Nam - 20 năm xây dựng& phát triển

26/02/2013 - 271 Lượt xem

1. Sự phát triển về tổ chức, cơ sở vật chất kỹ thuật và xây dựng lực lượng hệ thống khuyến nông Việt Nam

Hoạt động KN từ xa xưa đã được ông cha ta quan tâm để khuyến khích phát triển canh nông như truyền thuyết về vua Hùng dạy dân cấy lúa, trồng dâu, lễ hội Tịch điền (vua xuống ruộng đi cày vào mùa xuân để động viên dân chúng SX) từ thời tiền Lê, việc thành lập "KN sứ" thời Trần, việc vua Quang Trung ban hành "Chiếu KN" thời Tây Sơn...

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Đảng, Chính phủ và Bác Hồ cũng thường xuyên quan tâm chỉ đạo và ban hành nhiều chính sách KN nhằm khuyến khích phát triển SX nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân.

Ngày 1/3/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 13/NĐ-CP về Khuyến nông, Hệ thống KN chính thức được hình thành và phát triển. Trải qua 20 năm hoạt động đồng hành với tiến trình đổi mới của ngành nông nghiệp, tổ chức KN không ngừng phát triển, lớn mạnh và trở thành một hệ thống khá đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở thôn bản, gắn bó mật thiết với nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

Ở Trung ương, giai đoạn 1993 - 2004, Cục Khuyến nông - Khuyến lâm thuộc Bộ Nông nghiệp thực hiện cả 2 chức năng quản lý nhà nước về SXNN và hoạt động sự nghiệp KN; Vụ Nghề cá thuộc Bộ Thủy sản cũng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước và công tác khuyến ngư.

Năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2005/NĐ-CP về Khuyến nông, khuyến ngư. Ở Trung ương, Trung tâm KNQG được thành lập (tách từ Cục KN-KL) trực thuộc Bộ NN-PTNT; Trung tâm Khuyến ngư thuộc Bộ Thủy sản. Đến năm 2008, khi hợp nhất Bộ NN-PTNT và Bộ Thủy sản, Trung tâm KNQG và Trung tâm Khuyến ngư QG được hợp nhất thành Trung tâm KN-KN QG.

Ngày 8/1/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2010/NĐ-CP về KN thay Nghị định số 56/2005/NĐ-CP, cơ quan KN Trung ương chính thức là Trung tâm KNQG thuộc Bộ NN-PTNT.

Mặc dù có sự thay đổi về tổ chức và tên gọi khác nhau theo từng giai đoạn, nhưng tổ chức KN ở Trung ương vẫn liên tục phát triển và là đầu mối thống nhất chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ KN đối với hệ thống KN cả nước, đầu mối hợp tác với các tổ chức KN trong khu vực và quốc tế, là lực lượng nòng cốt triển khai thực hiện các chương trình, dự án, nội dung KN ở Trung ương.

Ở địa phương, các tổ chức KN-KN cũng từng bước được phát triển và hoàn thiện từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã và thôn, bản. Hiện nay ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều có Trung tâm KN (hoặc Trung tâm KN-KN) thuộc Sở NN-PTNT; có 596 huyện, thị xã (chiếm 95,5% số huyện, thị xã trong toàn quốc) đã có Trạm KN (hoặc Trạm KN-KN).

Ở cấp xã hiện có 51 tỉnh, thành phố có mạng lưới khuyến nông viên cơ sở, trong đó KNVCS chuyên trách từ 1-2 người/xã, mỗi thôn, bản có 1 cộng tác viên KN (bán chuyên trách); có gần 700 Câu lạc bộ KN cấp xã với gần 20.000 người tham gia.

Cùng với phát triển về tổ chức thì lực lượng cán bộ KN cũng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, hệ thống KN chuyên trách có gần 17.200 người, trong đó: TT KNQG 90 người; cấp tỉnh khoảng 1.900 người; cấp huyện xấp xỉ 4.000 người; cấp xã, lực lượng KNVCS xấp xỉ 11.200 người; cộng tác viên KN cấp thôn, bản xấp xỉ 18.000 người.

2. Phương pháp tiếp cận KN tiến bộ

Ngay từ những ngày đầu thành lập, hệ thống KN Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ, hài hòa 2 phương pháp tiếp cận KN cơ bản là:

+ Phương pháp tiếp cận từ dưới lên: Xuất phát từ nhu cầu của thực tế SX và của nông dân ở từng vùng, miền, từng giai đoạn cụ thể;

+ Phương pháp tiếp cận theo mục tiêu chiến lược: Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình KN trọng điểm nhằm tập trung nguồn lực, sự chỉ đạo để thực hiện các mục tiêu chiến lược của ngành, địa phương trong từng giai đoạn.

3. Nội dung hoạt động, hình thức KN thường xuyên đổi mới

Trong thập niên 90 của thế kỷ trước, giai đoạn nông nghiệp chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang phát triển kinh tế nông hộ, hệ thống KN cũng mới được thành lập, công tác KN chủ yếu tập trung phát triển kinh tế nông hộ, nhằm mục tiêu tăng năng suất, xoá đói giảm nghèo.

Hoạt động KN thời kỳ này tập trung vào 19 chương trình KN trọng điểm quốc gia như chuyển đổi cơ cấu SX, cơ cấu mùa vụ, các chương trình KN phát triển SX lúa, ngô, cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả; các chương trình KN chăn nuôi gia súc, gia cầm; chương trình thông tin tuyên truyền, đào tạo huấn luyện KN...

Trong lĩnh vực lâm nghiệp, các chương trình khuyến lâm tập trung và phát triển trồng rừng nguyên liệu thâm canh, cây lâm sản ngoài gỗ, nông lâm kết hợp. Các chương trình khuyến ngư tập trung phát triển 5 lĩnh vực bao gồm: (1) giống thuỷ sản, (2) nuôi tôm sú, (3) nuôi thuỷ sản nước lợ, nước mặn, nuôi biển đảo, (4) nuôi thuỷ sản nước ngọt (5) khai thác hải sản xa bờ và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản.

Từ năm 2007, sau khi VN gia nhập WTO, bên cạnh việc hỗ trợ đối tượng nông dân nghèo để xoá đói giảm nghèo, nội dung hoạt động KN đã chuyển sang chú trọng hỗ trợ các đối tượng nông dân SX hàng hoá, nông dân khá giả, áp dụng các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng giá trị thu nhập và đặc biệt là tăng khả năng cạnh tranh của nông sản VN trên thị trường quốc tế.

Để góp phần nâng cao chất lượng, APVSTP đối với nông sản, nâng cao giá trị, thu nhập cho người SX và đảm bảo phát triển nền nông nghiệp bền vững, hoạt động KN cũng chú trọng xây dựng và nhân rộng các mô hình SX nông lâm thuỷ sản theo hướng thực hành nông nghiệp tốt (GAP), áp dụng kỹ thuật canh tác "3 giảm 3 tăng", "1 phải 5 giảm", “cơ giới hóa đồng bộ", ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, liên kết chuỗi giá trị từ SX đến tiêu thụ theo mô hình “cánh đồng mẫu”, “trang trại mẫu”...

4. Một số thành tựu nổi bật của hoạt động KN 20 năm qua

a/ Hoạt động thông tin tuyên truyền KN ngày càng đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung và chú trọng nâng cao chất lượng:

Trong những năm qua, cơ quan KN Trung ương đã tổ chức được nhiều hoạt động có hiệu quả cao là:

+ Tổ chức được gần 60 hội thi nhằm bình tuyển và tôn vinh những gương nông dân SXKD giỏi, cán bộ KN năng động, sáng tạo và các sản phẩm cây trồng, vật nuôi, tiến bộ để khuyến khích nông dân phát triển SX.

+ Tổ chức thành công gần 50 hội chợ với gần 7.000 gian hàng nông nghiệp trưng bày, giới thiệu thành tựu ứng dụng KHKT vào SXNN; thu hút gần 1 triệu lượt người tham quan, mua sắm và trao đổi kinh nghiệm SX.

+ Tổ chức trên 120 diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp với nhiều chuyên đề theo các lĩnh vực và nhu cầu thực tế SX. Thu hút trên 30.000 người tham dự, trung bình khoảng 260 đại biểu/diễn đàn, trong đó trên 70% là người SX.

+ Phối hợp với hàng chục cơ quan báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình trung ương và khu vực để thông tin tuyên truyền tiến bộ kỹ thuật: có gần 29.000 tin, bài, chuyên mục với chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu của nông dân.

+ Trang website Khuyến nông Việt Nam được đánh giá là trang báo điện tử có số người truy cập nhiều nhất trong các trang web của Bộ NN-PTNT, đến nay đã có trên 24 triệu lượt người truy cập (bình quân trên 11.000 lượt truy cập/ngày).

+ In và phát hành trên 100 số Bản tin KN Việt Nam với số lượng hàng triệu bản; in và phát hành gần 7.000 đĩa hình, gần 60 đầu sách kỹ thuật nông nghiệp, hàng nghìn tờ gấp các loại với số lượng hàng triệu bản.

Đồng thời hệ thống KN địa phương cũng đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền với các nội dung và hình thức phong phú đa dạng, tạo điều kiện cung cấp thông tin tiến bộ kỹ thuật, cơ chế chính sách, giá cả thị trường kịp thời cho nông dân. Điển hình như các Trung tâm KN Thanh Hóa, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Bắc Giang…

b/ Hoạt động đào tạo, huấn luyện KN đã góp phần nâng cao năng lực cho cán bộ KN các cấp và trình độ, kỹ năng tổ chức quản lý SX của người nông dân:

Trong hai thập kỷ qua, cơ quan KN Trung ương đã biên soạn 40 bộ tài liệu và 30 bộ công cụ tập huấn KN và hàng trăm đĩa hình chuyển giao kỹ thuật phát trên truyền hình (VTV2, VTC16,…); tổ chức được khoảng 6.000 lớp tập huấn với hơn 210.000 lượt người tham gia.

Cùng với KN Trung ương, hệ thống KN địa phương cũng đã tổ chức hàng chục ngàn lớp tập huấn cho hàng triệu lượt nông dân với các chuyên đề gắn với SX của địa phương...

 

Những cố gắng phấn đấu không mệt mỏi và những đóng góp quan trọng trên đây của Hệ thống KN nói chung và Trung tâm KNQG nói riêng đã được hàng triệu hộ nông dân trong cả nước khẳng định, được Đảng, Nhà nước ghi nhận và tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba, hạng Hai và hạng Nhất cùng nhiều cờ thi đua, Bằng khen của Chính phủ và của Bộ NN-PTNT.

 

Gần đây, năm 2011 và 2012, hệ thống KN đã tích cực tham gia chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn. Tổ chức hàng trăm lớp bồi dưỡng và cấp chứng chỉ “Kỹ năng sư phạm dạy nghề” cho lực lượng cán bộ KN các cấp, đến nay cả nước đã có gần 2.500 cán bộ KN các cấp được đào tạo và có đủ điều kiện để tham gia giảng dạy các lớp đào tạo nghề nông nghiệp.

Riêng năm 2012 TTKNQG được Bộ giao nhiệm vụ triển khai thí điểm đào tạo nghề gắn với DN. Nội dung này đang được triển khai và được đánh giá đạt kết quả tốt.

c/ Các chương trình, dự án KN đã bám sát các chủ trương, định hướng phát triển của Bộ, ngành, chuyển giao thành công nhiều tiến bộ KHKT mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất và chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nông dân:

d/ Tích cực, chủ động phối hợp và tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về KN, góp phần nâng cao năng lực và vị thế của hệ thống KN VN trong khu vực và quốc tế:

Hiện tại, TTKNQG là đầu mối của Bộ NN-PTNT trong chương trình hợp tác trong các nước thành viên ASEAN về về đào tạo nông dân và tổ chức tuần lễ nông dân ASEAN (AWGATE). TTKNQG và một số tổ chức KN địa phương cũng tham gia nhiều dự án hoặc nội dung hợp tác quốc tế về KN do các quốc gia và các tổ chức quốc tế tài trợ...

Nguồn: Nongnghiep.vn