VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Số liệu thống kê

Tình hình kinh tế-xã hội 6 tháng đầu năm 2010

06/08/2010 - 264 Lượt xem

Năm 2010 là năm cuối thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010. Thực hiện thắng lợi kế hoạch năm 2010 không chỉ có ý nghĩa góp phần hoàn thành các mục tiêu và nhiệm vụ của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 mà còn tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục duy trì ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và các tiền đề cho phát triển đất nước trong giai đoạn tới. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, cả nước đang ra sức nỗ lực, quyết tâm hoàn thành tốt các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2010.

Sáu tháng đầu năm, kinh tế-xã hội nước ta tuy vẫn đang trên đà phục hồi nhanh và phát triển theo hướng tích cực với mức tăng trưởng khá ở hầu hết các ngành, lĩnh vực, nhưng còn gặp một số khó khăn: Kinh tế thế giới nhìn chung đang thoát ra khỏi khủng hoảng nhưng chưa thực sự có những chuyển biến mạnh mẽ và vững chắc, một số quốc gia có dấu hiệu bất ổn về kinh tế tài chính. Ở trong nước, một số cân đối kinh tế vĩ mô có biểu hiện chưa ổn định, cùng với hạn hán kéo dài và dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi gây ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và đời sống dân cư.

Trong bối cảnh đó, từ đầu năm Bộ Chính trị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành kịp thời nhiều Chỉ thị, Nghị quyết quan trọng và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương phối hợp chặt chẽ triển khai thực hiện đồng bộ và hiệu quả, trong đó trọng tâm là Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 15 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2010 với 6 nhiệm vụ và 8 nhóm giải pháp chủ yếu; Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010 với 6 giải pháp. Nhờ đó, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, lĩnh vực trong 6 tháng đầu năm đạt kết quả tích cực, tạo đà cho việc thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cả năm 2010.

KẾT QUẢ PHỤC HỒI TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước quý I/2010 tăng 5,83% so với cùng kỳ năm 2009, ước tính quý II/2010 tăng 6,4%, bằng 109,8% tốc độ tăng quý I/2010. Tính chung 6 tháng đầu năm, tổng sản phẩm trong nước tăng 6,16% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,31%, đóng góp 0,59 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,50%, đóng góp 2,63 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 7,05%, đóng góp 2,94 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 6 tháng đầu năm tuy chưa bằng mục tiêu 6,5% đề ra cho cả năm nhưng đã gấp 1,6 lần tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2009 và tăng cả trong ba khu vực. Xu hướng tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước trong 6 tháng đầu năm cho thấy nền kinh tế nước ta đang phục hồi nhanh và đạt mức tăng trưởng cao.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

%

Tốc độ tăng so với

6 tháng đầu năm trước

Đóng góp vào tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2010

6 tháng đầu năm 2009

6 tháng đầu năm 2010

Tổng số

3,87

6,16

6,16

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

1,47

3,31

0,59

Công nghiệp và xây dựng

3,48

6,50

2,63

Dịch vụ

5,32

7,05

2,94

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2010 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 103,4 nghìn tỷ đồng, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm nông nghiệp đạt 75,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,4%; lâm nghiệp đạt 3,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4% và thuỷ sản đạt 24,1 nghìn tỷ đồng, tăng 5,3%.

Nông nghiệp

Diện tích gieo cấy lúa đông xuân năm 2010 cả nước ước tính đạt 3086,1 nghìn ha, tăng 25,4 nghìn ha so với vụ đông xuân năm trước; năng suất đạt 62,2 tạ/ha, tăng 1,1 tạ/ha; sản lượng đạt 19,2 triệu tấn, tăng 495 nghìn tấn.

Chăm sóc lúa đông xuân tại các địa phương phía Bắc gặp khó khăn từ đầu vụ do thời tiết nắng hạn kéo dài, gây thiếu nước tưới nên diện tích gieo cấy ước tính đạt 1147,3 nghìn ha, giảm 3,2 nghìn ha so với vụ đông xuân năm 2009, do đó sản lượng chỉ đạt 6,8 triệu tấn, giảm 32,8 nghìn tấn. Một số địa phương có sản lượng lúa đông xuân giảm nhiều là: Hải Dương giảm 22 nghìn tấn; Phú Thọ giảm 7 nghìn tấn; Cao Bằng giảm 6,3 nghìn tấn; Thanh Hóa giảm 4,9 nghìn tấn; Thái Bình và Nghệ An cùng giảm 2,2 nghìn tấn; Hà Giang giảm 1,6 nghìn tấn.

Thời tiết tại các địa phương phía Nam tương đối thuận nên diện tích gieo sạ lúa đông xuân ước tính đạt 1938,8 nghìn ha, tăng 28,6 nghìn ha so với vụ đông xuân trước, năng suất đạt 63,8 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha, do đó sản lượng đạt khá với 12,4 triệu tấn, tăng 528 nghìn tấn. Diện tích gieo sạ lúa đông xuân vùng Đồng bằng sông Cửu Long tăng 15,8 nghìn ha so với vụ đông xuân năm 2009, trong đó Tiền Giang tăng 38%; Đồng Tháp tăng 37%; An Giang tăng 20%. Một số giống lúa có năng suất cao, tiêu thụ nhanh và chi phí đầu tư thấp được các địa phương đưa vào sử dụng như: IR 50404, OM 576 nên năng suất toàn vùng tăng 2 tạ/ha so với vụ đông xuân trước. Do diện tích gieo trồng và năng suất tăng nên sản lượng lúa đông xuân vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 10,3 triệu tấn, tăng 419 nghìn tấn so với năm 2009.

Các loại cây trồng đông xuân khác cũng đã cơ bản thu hoạch xong, trong đó sản lượng ngô đạt 2,3 triệu tấn, tăng 12,1% so với vụ đông xuân trước; khoai lang đạt 837,5 nghìn tấn, tăng 12,9%; đậu tương 164,4 nghìn tấn, tăng 121,9%...

Cùng với việc thu hoạch vụ đông xuân, tính đến trung tuần tháng 6, các địa phương đã xuống giống được 1940,4 nghìn ha lúa hè thu, bằng 95,7% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Nam xuống giống 1797,8 nghìn ha, bằng 95,3%. Tiến độ gieo sạ lúa hè thu ở các địa phương phía Nam chậm chủ yếu do tình trạng nước mặn xâm nhập và thời tiết khô hạn kéo dài làm nhiều diện tích bị ảnh hưởng.

Sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm 6 tháng đầu năm đạt khá so với cùng kỳ năm trước do diện tích cho sản phẩm tăng, trong đó sản lượng chè tăng 5,5%; cao su tăng 9%; hồ tiêu tăng 1,2%; cam tăng 5%.

Theo kết quả điều tra chăn nuôi thời điểm 01/4/2010, đàn trâu cả nước có 2,9 triệu con, tăng 0,5% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 6 triệu con, giảm 1,4%; đàn lợn có 27,3 triệu con, tăng 3,1%; đàn gia cầm có 277,4 triệu con, tăng 8,1%. Tuy dịch tai xanh trên lợn xảy ra trong hai tháng gần đây tại nhiều địa phương làm 150 nghìn con mắc bệnh, trong đó gần 66 nghìn con bị tiêu hủy nhưng những tháng đầu năm chăn nuôi có nhiều thuận lợi về giá bán sản phẩm và giá thức ăn, bên cạnh đó dịch cúm gia cầm và dịch lở mồm long móng trên trâu, bò cơ bản được khống chế nên sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm tăng khá so với cùng kỳ năm trước, trong đó thịt lợn hơi đạt 1,79 triệu tấn, tăng 4,7%; thịt gia cầm hơi đạt 330,7 nghìn tấn, tăng 17%; trứng gia cầm 3278,8 triệu quả, tăng 7,1%.

Tính đến ngày 27/6/2010, dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương là: Dịch cúm gia cầm còn ở Thái Nguyên; dịch tai xanh trên lợn ở Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Hà Nam, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nghệ An, Quảng Ninh, Cao Bằng và Sơn La.

Lâm nghiệp

Tranh thủ thời tiết có mưa sớm, các địa phương đã tập trung triển khai trồng và chăm sóc rừng. Tổng diện tích rừng trồng tập trung 6 tháng đầu năm ước tính đạt 76,2 nghìn ha, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có diện tích rừng trồng tăng khá là: Tuyên Quang 14 nghìn ha, tăng 66,3% so với cùng kỳ năm 2009; Yên Bái 10,2 nghìn ha, tăng 19,4%; Phú Thọ 9,4 nghìn ha, tăng 87,1%; Hà Giang 7,7 nghìn ha, gấp 2 lần; Thanh Hóa 6,6 nghìn ha, tăng 10,7%. Cũng trong 6 tháng đầu năm, số cây trồng phân tán đạt 107,6 triệu cây, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng trồng được chăm sóc đạt 383 nghìn ha, tăng 6,6%; diện tích rừng tự nhiên được khoanh nuôi tái sinh 1000,4 nghìn ha, tăng 6,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1775 nghìn m3, tăng 6%, trong đó sản lượng gỗ nguyên liệu giấy đạt 907 nghìn tấn; sản lượng củi khai thác 13,7 triệu ste, tăng 2,5%. Sản lượng gỗ khai thác tăng khá một mặt do nhiều diện tích rừng sản xuất đã đến kỳ khai thác, đặc biệt là rừng nguyên liệu giấy, mặt khác thị trường tiêu thụ gỗ khá ổn định và giá sản phẩm gỗ tương đối cao. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng cao là: Quảng Nam 129 nghìn m3, tăng 7%; Yên Bái 120 nghìn m3, tăng 39,8%; Phú Thọ 115,3 nghìn m3, tăng 24,9%; Tuyên Quang 87,2 nghìn m3, tăng 6,1%; Nghệ An 63,2 nghìn m3, tăng 2,1%; Lâm Đồng 44,7 nghìn m3, tăng 17,6%; Hà Giang 28,3 nghìn m3, tăng 12,9%.

Thời tiết khô hanh kéo dài trong những tháng đầu năm là nguyên nhân chủ yếu gây ra cháy rừng, trong đó có những vụ cháy nghiêm trọng xảy ra trên phạm vi rộng. Trong 6 tháng đầu năm đã xảy ra 884 vụ cháy rừng làm thiệt hại 6348 ha, gấp 4,5 lần cùng kỳ năm 2009. Một số địa phương có diện tích rừng bị cháy nhiều là: Sơn La 1099 ha; Yên Bái 1060 ha; Hà Giang 810,8 ha; Lào Cai 795,5 ha; Kiên Giang 347,3 ha; Long An 266,6 ha; Phú Yên 264,4 ha; Cà Mau 142 ha. Tình hình chặt phá rừng làm nương rẫy và khai thác gỗ trái phép vẫn xảy ra với 2886 vụ, làm thiệt hại 1006,2 ha, bằng 84,2% cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có diện tích rừng bị chặt phá nhiều là: Bình Phước 315 ha; Sơn La 230 ha; Đắk Nông 127 ha; Phú Yên 90,7 ha; Kon Tum 76,8 ha; Lâm Đồng 73,4 ha; Điện Biên 29,3 ha.

Thủy sản

Tổng sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm ước tính đạt 2429,8 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng cá đạt 1883,8 nghìn tấn, tăng 4,8%; tôm 204,9 nghìn tấn, tăng 5,8%.

Diện tích nuôi trồng thủy sản 6 tháng đầu năm đạt 972,5 nghìn ha, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích nuôi cá 312 nghìn ha, tăng 8%; diện tích nuôi tôm 623,5 nghìn ha, tăng 3%. Do diện tích thả nuôi tăng nên sản lượng thuỷ sản nuôi trồng 6 tháng đầu năm tăng khá, ước tính đạt 1206,7 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước (cá 964,6 nghìn tấn, tăng 5,5%; tôm 143,5 nghìn tấn, tăng 6,1%). Nuôi cá tra tại các địa phương phát triển theo hướng đầu tư mở rộng diện tích nên sản lượng đạt khá với 500 nghìn tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2009. Năng suất thu hoạch cá tra vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 106 tấn/ha, tăng 16 tấn/ha so với cùng kỳ năm trước, trong đó An Giang đạt 157 tấn/ha, tăng 30 tấn/ha; Đồng Tháp 97 tấn/ha, tăng 8 tấn/ha; Cần Thơ 91 tấn/ha, tăng 18 tấn/ha. Nuôi tôm thẻ chân trắng thay cho tôm sú tiếp tục phát triển do năng suất cao và dễ nuôi, sản lượng 6 tháng đầu năm ước tính đạt 26,7 nghìn tấn, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước, tập trung chủ yếu ở khu vực Duyên hải miền Trung và một số tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một số địa phương có sản lượng tôm thẻ chân trắng tăng cao là: Kiên Giang 3878 tấn, tăng 85% so với cùng kỳ năm 2009; Phú Yên 1156 tấn, tăng 45%; Long An 1066 tấn, gấp 2,4 lần.

Sản lượng thuỷ sản khai thác 6 tháng đầu năm ước tính đạt 1223,1 nghìn tấn, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 1143,7 nghìn tấn, tăng 5,7%. Sản lượng thủy sản khai thác đạt khá chủ yếu do đang vào mùa cá nam nên nhiều loại cá xuất hiện trên ngư trường. Bên cạnh đó, giá cá ngừ đại dương ở mức cao đã khuyến khích ngư dân các địa phương tích cực bám biển, trong đó Phú Yên khai thác được 4,8 nghìn tấn, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước; Bình Định 3,4 nghìn tấn, tăng 14,1%.

Sản xuất công nghiệp

Giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 366,1 nghìn tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 9,5% (Trung ương quản lý tăng 12,7%; địa phương quản lý giảm 3,3%); khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 12,6% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17% (dầu mỏ và khí đốt giảm 7,3%, các ngành khác tăng 20,5%). Một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có qui mô sản xuất công nghiệp lớn có giá trị sản xuất đạt tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung là: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bình Dương, Thanh Hoá, Hải Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng, Quảng Ninh.

Trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm, giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 89,6% và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhiều sản phẩm chủ yếu có sản lượng tăng cao là: Khí hóa lỏng tăng 94,5%; sữa bột tăng 39,4%; lốp ô tô, máy kéo tăng 32,4%; xe tải tăng 32,1%; xe chở khách tăng 30,8%; kính thủy tinh tăng 30,3%; xe máy tăng 29,8%; điều hoà nhiệt độ tăng 27,2%; tủ lạnh, tủ đá tăng 23,1%; xi măng tăng 19,2%; xà phòng tăng 18,5%; bia tăng 16,6%; quần áo người lớn tăng 15,7%; gạch xây tăng 14,4%; gạch lát ceramic tăng 13,8%. Tuy nhiên, còn một số sản phẩm tăng chậm hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước do gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm như: Giày thể thao tăng 13,3%; giấy, bìa tăng 13,2%; sơn hóa học tăng 11,9%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo tăng 8,3%; giầy, dép, ủng bằng da giả tăng 7,2%; thép tròn tăng 5,2%; tivi tăng 3,5%; phân hóa học tăng 3%; máy giặt tăng 1,3%; dầu thực vật tinh luyện giảm 0,5%; đường kính giảm 7,4%.

Giá trị sản xuất ngành công nghiệp khai thác 6 tháng đầu năm giảm 4% so với cùng kỳ năm 2009, chủ yếu do sản lượng dầu thô khai thác chiếm tỷ trọng lớn nhưng giảm 16,2% và sản lượng than khai thác tăng thấp ở mức 5,4%.

Giá trị sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện, nước 6 tháng đầu năm tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do sản lượng điện sản xuất tăng cao với 15,5% (cùng kỳ năm 2009 tăng 7,9%). Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn huy động từ thủy điện gặp nhiều khó khăn do thời tiết khô hạn kéo dài và nhu cầu tiêu dùng điện cho sản xuất và sinh hoạt cũng tăng cao nên khả năng đáp ứng bị hạn chế. Trong 6 tháng đầu năm, sản lượng điện cung cấp cho ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 30,5% so với cùng kỳ năm 2009; cung cấp cho ngành công nghiệp và xây dựng tăng 22,2%; cho ngành thương nghiệp, khách sạn nhà hàng tăng 12,9%; cho quản lý và tiêu dùng dân cư tăng 5,6%. Thực tế trên đây cho thấy, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng điện cho sản xuất trong nước đang phát triển với tốc độ nhanh cần có sự điều tiết hợp lý giữa sản xuất và phân phối điện cho các mục đích tiêu dùng; đồng thời tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, tránh để xảy ra tình trạng thiếu điện kéo dài gây ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh.

Hoạt động dịch vụ

Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm ước tính đạt 747,4 nghìn tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2009, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 16,4%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm, kinh doanh thương nghiệp đạt 590,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 78,9% tổng số và tăng 27,6%; khách sạn nhà hàng đạt 81,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 11% và tăng 22,1%; dịch vụ đạt 67,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 9% và tăng 23,9%; du lịch đạt 7,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,1% và tăng 32,6%.

Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách 6 tháng đầu năm 2010 ước tính đạt 1153,3 triệu lượt khách, tăng 13,4% và 49,3 tỷ lượt khách.km, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 17,7 triệu lượt khách, tăng 11,4% và 12 tỷ lượt khách.km, tăng 14,4%; vận tải địa phương đạt 1135,6 triệu lượt khách, tăng 13,9% và 37,3 tỷ lượt khách.km, tăng 15,9%. Vận tải hành khách đường bộ 6 tháng ước tính đạt 1055,7 triệu lượt khách, tăng 14,2% và 36,1 tỷ lượt khách.km, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 82,7 triệu lượt khách, tăng 2,9% và 1,7 tỷ lượt khách.km, tăng 0,6%; đường hàng không đạt 5,9 triệu lượt khách, tăng 29,7% và 9,2 tỷ lượt khách.km, tăng 26,9%; đường biển đạt 3,2 triệu lượt khách, tăng 4,2% và 206,2 triệu lượt khách.km, tăng 5,5%; đường sắt đạt 5,8 triệu lượt khách, tăng 4,4% và 2,1 tỷ lượt khách.km, tăng 6,1%.

Vận tải hàng hóa 6 tháng ước tính đạt 343,9 triệu tấn, tăng 11,4% và 97,4 tỷ tấn.km, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải trong nước đạt 320,6 triệu tấn, tăng 12,4% và 27,4 tỷ tấn.km, tăng 9,8%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 256,1 triệu tấn, tăng 12,1% và 13,5 tỷ tấn.km, tăng 12,2%; đường sông đạt 58,1 triệu tấn, tăng 5,1% và 9,3 tỷ tấn.km, tăng 1,8%; đường biển đạt 25,6 triệu tấn, tăng 21% và 72,4 tỷ tấn.km, tăng 10%; đường sắt đạt 4 triệu tấn, giảm 0,8% và 2 tỷ tấn.km, tăng 2,7%.

Bưu chính, viễn thông

Số thuê bao điện thoại mới 6 tháng đầu năm ước tính đạt 22,8 triệu thuê bao, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm 707,7 nghìn thuê bao cố định, giảm 58,7% và 22,1 triệu thuê bao di động, tăng 18,7%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến hết tháng 6/2010 đạt 151 triệu thuê bao, tăng 48,5% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 17,5 triệu thuê bao cố định, tăng 10,7% và 133,5 triệu thuê bao di động, tăng 55,4%. Số thuê bao điện thoại của Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông tính đến hết tháng 6/2010 đạt 79,4 triệu thuê bao, tăng 35,6% so với cùng thời điểm năm 2009, bao gồm 11,6 triệu thuê bao cố định, tăng 4,4% và 67,8 triệu thuê bao di động, tăng 43%.

Số thuê bao internet băng rộng trên cả nước tính đến hết tháng 6/2010 ước tính đạt 3,4 triệu thuê bao, tăng 33,5% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 2,5 triệu thuê bao, tăng 49,6%. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông 6 tháng đầu năm ước tính đạt 56,1 nghìn tỷ đồng, tăng 33,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 37,4 nghìn tỷ đồng, tăng 32,7%.

Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta 6 tháng đầu năm ước tính đạt 2510,5 nghìn lượt người, tăng 32,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1595,2 nghìn lượt người, tăng 40,3%; đến vì công việc 502 nghìn lượt người, tăng 44,6%; thăm thân nhân đạt 288,9 nghìn lượt người, tăng 2,9%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường không là 2014,4 nghìn lượt người, tăng 29,2%; đến bằng đường biển 23 nghìn lượt người, giảm 44,4%; đến bằng đường bộ 473,1 nghìn lượt người, tăng 61,3%.

Hầu hết khách từ các nước đến nước ta trong 6 tháng đầu năm đều tăng mạnh, trong đó khách đến từ Trung Quốc đạt 437,2 nghìn lượt người, tăng 92,5%; Hàn Quốc 252,4 nghìn lượt người, tăng 28,3%; Hoa Kỳ 230,8 nghìn lượt người, tăng 3,5%; Nhật Bản 210,7 nghìn lượt người, tăng 18,5%; Đài Loan 166,6 nghìn lượt người, tăng 20,5%; Ôx-trây-li-a 143,4 nghìn lượt người, tăng 25,7%; Cam-pu-chia 116,9 nghìn lượt người, tăng 88,9%; Thái Lan 109,8 nghìn lượt người, tăng 28,1%.

KẾT QUẢ ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG VÀ NGĂN CHẶN LẠM PHÁT CAO TRỞ LẠI

Đầu tư phát triển

Nhờ tập trung đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án, công trình trọng điểm, và thiết yếu theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ nên vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế thực hiện 6 tháng đầu năm ước tính đạt 390,1 nghìn tỷ đồng, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 166,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 42,7% tổng vốn và tăng 17,8%; khu vực ngoài Nhà nước 120 nghìn tỷ đồng, chiếm 30,8% và tăng 9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 103,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,5% và tăng 11,8%.

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6 tháng đầu năm 2010

Nghìn tỷ đồng

Cơ cấu (%)

So với cùng kỳ năm trước (%)

TỔNG SỐ

390,1

100,0

113,4

Khu vực Nhà nước

166,8

42,7

117,8

Khu vực ngoài Nhà nước

120,0

30,8

109,0

Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

103,3

26,5

111,8

Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện 6 tháng đầu năm ước tính đạt 63 nghìn tỷ đồng, bằng 50,4% kế hoạch năm, gồm có:

- Vốn trung ương quản lý đạt 20,5 nghìn tỷ đồng, bằng 54,6% kế hoạch năm, trong đó: Vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 776,3 tỷ đồng, bằng 76,2% kế hoạch năm; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2280 tỷ đồng, bằng 71,6%; Bộ Giao thông Vận tải 4440 tỷ đồng, bằng 66,8%; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch 238 tỷ đồng, bằng 40,5%; Bộ Công thương 1630 tỷ đồng, bằng 40,3%; Bộ Y tế 473 tỷ đồng, bằng 37,7%; Bộ Xây dựng 344 tỷ đồng, bằng 34,8% kế hoạch năm 2010.

- Vốn địa phương quản lý đạt 42,5 nghìn tỷ đồng, bằng 48,6% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có tiến độ thực hiện nhanh là: Ninh Bình đạt 1493,6 tỷ đồng, bằng 92,6% kế hoạch năm; Thừa Thiên-Huế 1147 tỷ đồng, bằng 68%; Hoà Bình 718,3 tỷ đồng, bằng 67,9%; Hải Phòng 1083,7 tỷ đồng, bằng 65,3%; Bắc Ninh 761,2 tỷ đồng, bằng 63,1%; Đà Nẵng 2575,4 tỷ đồng, bằng 62,4%.

Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/6/2010 đạt 8,4 tỷ USD, bằng 80,9% cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Vốn đăng ký của 438 dự án được cấp phép mới đạt 7,9 tỷ USD, tuy giảm 19,9% về số dự án nhưng tăng 43% về số vốn so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bổ sung của 121 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 525 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng đầu năm ước tính đạt 5,4 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2009.

Trong các lĩnh vực có vốn đầu tư nước ngoài, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 2,87 tỷ USD cấp mới và tăng thêm, chiếm 34% tổng vốn đăng ký 6 tháng đầu năm; lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa đạt 2,2 tỷ USD, chiếm 25,5%; kinh doanh bất động sản 1,78 tỷ USD, chiếm 21,2%, trong đó chủ yếu là cấp mới với 1,75 tỷ USD.

Trong 6 tháng đầu năm, cả nước có 35 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Bà Rịa-Vũng Tàu có số vốn đăng ký lớn nhất với gần 2,2 tỷ USD, chiếm 27,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Quảng Ninh 2,1 tỷ USD, chiếm 27,2%; thành phố Hồ Chí Minh 1,1 tỷ USD, chiếm 13,6%; Nghệ An 1 tỷ USD, chiếm 12,7%; Quảng Ngãi 340 triệu USD, chiếm 4,3%; Hà Tĩnh 206,1 triệu USD, chiếm 2,6%.

Trong số 39 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam 6 tháng đầu năm, Hà Lan là nhà đầu tư lớn nhất với 2,2 tỷ USD, chiếm 28% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 1,6 tỷ USD, chiếm 19,8%; Nhật Bản 1,2 tỷ USD, chiếm 15%; Hoa Kỳ 991,5 triệu USD, chiếm 12,5%; Đài Loan 795,9 triệu USD, chiếm 10,1%; Đảo Cay-men 363 triệu USD, chiếm 4,6%; quần đảo Virgin thuộc Anh 204,9 triệu USD, chiếm 2,6%; Xin-ga-po 184,1 triệu USD, chiếm 2,3%.

Vốn ODA giải ngân 6 tháng đầu năm ước tính đạt 1410 triệu USD, bằng 57% kế hoạch năm và tăng 11% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm: vốn vay đạt 1310 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại đạt 100 triệu USD.

Cân đối thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/6/2010 ước tính bằng 47,8% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 47,4%; thu từ dầu thô bằng 41,3%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 53,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 49,1%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 42,6%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 43,7%; thu thuế thu nhập cá nhân bằng 50,1%; thu phí xăng dầu bằng 48,2%; thu phí, lệ phí bằng 40,3%. Tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm ước tính tăng 21,6% so với cùng kỳ năm 2009 và bằng 52,5% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa tăng 21% và bằng 52,1%; thu từ dầu thô tăng 9,9% và bằng 45,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng 32,6% và bằng 58,6%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/6/2010 ước tính bằng 42,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 45,5%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính bằng 42,8%; chi trả nợ và viện trợ bằng 46,9%. Tổng chi ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm ước tính tăng 21,3% so với cùng kỳ năm trước và bằng 46,9% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển tăng 21% và bằng 49,9%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, an ninh, quản lý nhà nước tăng 23,1% và bằng 47,2%; chi trả nợ và viện trợ tăng 13,3% và bằng 50%.

Bội chi ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm ước tính bằng 11,2% tổng số chi và bằng 25,6% mức bội chi dự toán năm đã được Quốc hội quyết định và được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước theo quy định.

Cân đối thương mại

Xuất khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu 6 tháng đầu năm ước tính đạt 32,1 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ xuất khẩu vàng và các sản phẩm vàng thì tăng 22,4%), trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 14,9 tỷ USD, tăng 5,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 17,2 tỷ USD, tăng khá cao ở mức 26,2%.

Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu 6 tháng đầu năm tăng một mặt do lượng một số mặt hàng nông, thủy sản và công nghiệp tăng, mặt khác do giá trên thị trường thế giới tăng. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước, trong đó hàng dệt may đạt 4,8 tỷ USD, tăng 17,2%; giày dép đạt 2,3 tỷ USD, tăng 10,9%; hàng thủy sản đạt 2 tỷ USD, tăng 14,2%; hàng điện tử máy tính đạt 1,5 tỷ USD, tăng 31,4%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,5 tỷ USD, tăng 32,5%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 1,4 tỷ USD, tăng 67,4%. Một số mặt hàng do lượng xuất khẩu giảm nhiều dẫn đến kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm trước là: Dầu thô đạt 2,6 tỷ USD, giảm 17,8% (lượng giảm 46,3%); sắn và sản phẩm của sắn đạt 316 triệu USD, giảm 13,9% (lượng giảm 51,4%).

Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm có sự thay đổi so với cùng kỳ năm trước, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng tăng từ 29,2% lên 30,2%, chủ yếu do tăng xuất khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ cầm tay và phương tiện vận tải; tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 37,7% lên 43,3%; tỷ trọng nhóm hàng nông, lâm sản là 22%, giảm nhẹ do sự sụt giảm cả về lượng và kim ngạch của hai mặt hàng quan trọng là gạo và cà phê.

Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 6 tháng đầu năm ước tính đạt 6,2 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là ASEAN đạt 5,3 tỷ USD, tăng 21%; EU đạt 4,8 tỷ USD, tăng 5,9%; Nhật Bản đạt 3,5 tỷ USD, tăng 31%; Trung Quốc đạt 2,8 tỷ USD, tăng 44%; Hàn Quốc đạt 1,2 tỷ USD, tăng 35%.

Nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm ước tính đạt 38,9 tỷ USD, tăng 29,4% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng 8,7%), bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 22,7 tỷ USD, tăng 18,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 16,2 tỷ USD, tăng 48,9%.

Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 6,1 tỷ USD, tăng 13,1%; xăng dầu đạt 3,3 tỷ USD, tăng 11,6%; sắt thép đạt 2,8 tỷ USD, tăng 29,1%; vải 2,5 tỷ USD, tăng 27%; điện tử máy tính và linh kiện 2,2 tỷ USD, tăng 37,8%; chất dẻo đạt 1,8 tỷ USD, tăng 49,3% (lượng tăng 8,9%); nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 1,3 tỷ USD, tăng 35,7%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 1,2 tỷ USD, tăng 40,6%. Riêng nhập khẩu ôtô nguyên chiếc đã có xu hướng giảm, đạt 394 triệu USD, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm 2009.

Trong tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm, nhóm hàng tiêu dùng chiếm 7,2%, giảm so với mức 9,7% của cùng kỳ năm 2009; nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu tăng từ 61% lên 65,2% và chiếm 81,5% mức tăng chung của tổng kim ngạch 6 tháng; nhóm hàng máy móc, thiết bị giảm nhẹ từ 29,4% xuống 27%.

Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu 6 tháng từ các thị trường chủ yếu đều tăng so với cùng kỳ năm 2009, trong đó nhập từ Trung Quốc đạt 9,1 tỷ USD, tăng 34%; từ ASEAN đạt 7,8 tỷ USD, tăng 20,4%; từ Nhật Bản 4 tỷ USD, tăng 31%; từ EU đạt 2,9 tỷ USD, tăng 20,4%; từ Đài Loan 3,2 tỷ USD, tăng 11%.

Nhập siêu hàng hoá 6 tháng đầu năm ước tính đạt 6,7 tỷ USD, bằng 20,9% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu, trong đó chủ yếu nhập siêu từ thị trường Trung Quốc với trên 6 tỷ USD. Nếu không tính xuất khẩu vàng và sản phẩm của vàng thì nhập siêu 6 tháng đầu năm đạt 8,1 tỷ USD, bằng 26,2% kim ngạch xuất khẩu.

Kết quả ngăn ngừa lạm phát cao trở lại

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2010 tăng 0,22% so với tháng trước. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng cao hơn mức tăng chung là: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,62%; bưu chính viễn thông tăng 0,49%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,48%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,37% (lương thực giảm 0,83%; thực phẩm tăng 0,71%); văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,36%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,33%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm là: Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,21%; giáo dục tăng 0,09%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,01%; giao thông giảm 0,7%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2010 tăng 8,69% so với cùng kỳ năm trước và tăng 4,78% so với tháng 12/2009. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm tăng 8,75% so với bình quân 6 tháng đầu năm 2009.

Năm 2009 là năm được đánh giá là thành công của Chính phủ trong chỉ đạo phòng ngừa tái lạm phát cao trở lại khi giữ được mức lạm phát không cao, theo đó chỉ số giá tiêu dùng tăng bình quân mỗi tháng trong quý I và quý II đều ở mức 0,44%. Sang năm 2010, tuy chỉ số giá tiêu dùng quý I có biểu hiện tăng cao trở lại với mức tăng bình quân tháng là 1,35%, nhưng sang quý II mức tăng bình quân tháng đã giảm xuống còn 0,21%, bằng 15,6% mức tăng bình quân tháng trong quý I/2010 và bằng một nửa mức tăng bình quân tháng trong quý II/2009. Điều này cho thấy các chính sách bình ổn giá đã bước đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên, giá trên thị trường thế giới còn có những biến động khó lường, đặc biệt là giá các mặt hàng nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất do kinh tế thế giới trên đà phục hồi, nhiều nền kinh tế lớn đang kỳ vọng đạt mức tăng trưởng cao. Điều này chắc chắn sẽ tác động mạnh đến thị trường giá cả và sản xuất trong nước trong thời gian tới.

Giá vàng tháng 6/2010 so với tháng trước tăng 3,09%; so với tháng 12/2009 tăng 0,3% và so với cùng kỳ năm trước tăng 32,43%. Giá đô la Mỹ tháng 6/2010 so với tháng trước giảm 0,17%; so với tháng 12/2009 tăng 0,41% và so với cùng kỳ năm 2009 tăng 5,53%.

KẾT QUẢ ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI, PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC, Y TẾ, VĂN HOÁ VÀ CÁC LĨNH VỰC XÃ HỘI KHÁC

Đời sống dân cư

Thiên tai và dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi trong những tháng qua gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư. Tính chung 6 tháng đầu năm, cả nước có 601,8 nghìn lượt hộ với 2271,3 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, trong 6 tháng đầu năm, các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 21,9 nghìn tấn lương thực và 9,2 tỷ đồng, riêng tháng 6/2010 hỗ trợ 4,3 nghìn tấn lương thực và 1,4 tỷ đồng. Bên cạnh đó, nhiều chương trình, chính sách xóa đói giảm nghèo của Chính phủ được triển khai thực hiện có hiệu quả tại các địa phương đã góp phần quan trọng hỗ trợ các hộ nghèo phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập; bảo đảm các đối tượng cứu trợ xã hội đều được hưởng chính sách trợ giúp thường xuyên, đặc biệt đối với người nghèo và đồng bào vùng sâu, vùng xa. Tổng số tiền và hiện vật hỗ trợ trong dịp Tết Nguyên đán Canh Dần tới các đối tượng chính sách xã hội khoảng 885 tỷ đồng. Trong 6 tháng đầu năm, theo báo cáo sơ bộ đã có 26,1 nghìn căn nhà được xây mới và bàn giao cho các đối tượng, gia đình chính sách.

Thu nhập của người làm công ăn lương cũng tiếp tục được cải thiện. Theo Nghị định số 28/2010/NĐ-CP ngày 25/3/2010 của Chính phủ, từ 01/5/2010 mức lương tối thiểu của người lao động tăng 12,3%, từ 650 nghìn đồng/tháng lên 730 nghìn đồng/tháng. Theo Nghị định số 29/2010/NĐ-CP ngày 25/3/2010 của Chính phủ, cũng từ ngày 01/5/2010, thu nhập của những đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng tăng 12,3%. Tính chung, thu nhập bình quân một tháng của lao động khu vực Nhà nước trong 6 tháng đầu năm đạt 2916,6 nghìn đồng, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2009.

Giáo dục, đào tạo

Trong năm học 2009-2010, cả nước có 910,9 nghìn thí sinh tham gia kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và 134,2 nghìn thí sinh dự thi tốt nghiệp hệ bổ túc trung học phổ thông. Theo báo cáo sơ bộ, tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 92,6%, tỷ lệ tốt nghiệp hệ bổ túc trung học phổ thông đạt 66,4%.

Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có tỷ lệ tốt nghiệp hệ trung học phổ thông cao là: Nam Định 99,8%, Hà Nam 99,7%, Thái Bình 99,7%, Phú Thọ 99,5%, Hải Dương 99,4%, Bắc Ninh 99,4%, Hưng Yên 99,4%. Nhìn chung đề thi năm nay được đánh giá bảo đảm yêu cầu chính xác, khoa học và phù hợp với chương trình giảng dạy. Kỳ thi được tổ chức đúng kế hoạch, đúng quy chế, bảo đảm an toàn và nghiêm túc.

Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục của cả nước, các địa phương tiếp tục đẩy mạnh triển khai công tác phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Tính đến tháng 6/2010, cả nước có 52/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và 61/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

Cũng trong năm học 2009-2010, cả nước có 1796,2 nghìn sinh viên đại học và cao đẳng (đạt 209 sinh viên/vạn dân), tăng 4,5% so với năm học trước; 699,7 nghìn học sinh trung cấp chuyên nghiệp, tăng 11,3%; 65,1 nghìn giáo viên đại học và cao đẳng, tăng 7,4%; 18 nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, tăng 7,1%.

Y tế

Trong tháng 6/2010, cả nước có 4,1 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 962 trường hợp mắc bệnh viêm gan vi rút; 6,2 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 74 trường hợp mắc bệnh viêm não virut; 44 trường hợp mắc bệnh thương hàn và 17 vụ ngộ độc thực phẩm. Tính chung 6 tháng đầu năm, cả nước có 17 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, giảm 25,8% so với cùng kỳ năm 2009; 2,8 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan vi rút, tăng 25,2%; gần 16 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét, giảm 39,3%; 231 trường hợp mắc viêm não vi rút, tăng 116%; 208 trường hợp mắc bệnh thương hàn, giảm 23,2%; 67 vụ ngộ độc thực phẩm làm 2,6 nghìn trường hợp ngộ độc, trong đó 27 người tử vong.

Trong tháng đã phát hiện thêm 3,3 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước tính đến tháng 6/2010 lên 222,9 nghìn người, trong đó 88,3 nghìn người đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 47,4 nghìn người đã tử vong do AIDS.

Hoạt động văn hóa, thể thao

Để chào mừng và hướng tới Đại lễ một nghìn năm Thăng Long - Hà Nội, trong 6 tháng đầu năm, nhiều hoạt động văn hóa có ý nghĩa diễn ra sôi nổi tại các địa phương trên cả nước như: Lễ hội hoa Hà Nội; Lễ hội Đống Đa kỷ niệm 221 năm Quang Trung - Nguyễn Huệ giải phóng Thăng Long; Lễ hội xuân Hà Nội 2010; Lễ hội đền Hùng; Lễ hội Cố đô Hoa Lư, v.v…Bên cạnh đó, nhiều hoạt động khác với quy mô lớn cũng được triển khai như: Thi sáng tác biểu trưng; thi tìm hiểu một nghìn năm Thăng Long - Hà Nội; vận động sáng tạo văn học nghệ thuật có chủ đề “Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến”; Triển lãm Việt Nam trong Triển lãm quốc tế EXPOR Thượng Hải 2010 với chủ đề “Một nghìn năm Thăng Long - Hà Nội”; Liên hoan sân khấu Thiếu nhi quốc tế; Chương trình "Đi bộ đồng hành hướng tới Đại lễ một nghìn năm Thăng Long Hà Nội"; Lễ ra mắt Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến - công trình văn hóa phi vật thể trọng điểm kỷ niệm một nghìn năm Thăng Long-Hà Nội cũng đã tạo dấu ấn tốt đẹp.

Cùng với việc tổ chức các hoạt động văn hóa mang nhiều ý nghĩa của năm 2010, Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch còn tập trung và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa. Từ đầu năm, thanh tra các địa phương trong cả nước đã tiến hành kiểm tra hành chính hơn 5,3 nghìn cơ sở, qua đó phát hiện và xử lý gần 1,5 nghìn vụ vi phạm, phạt hành chính gần 4,7 tỷ đồng.

Bên cạnh các hoạt động văn hóa sôi nổi được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng, phong trào thể dục thể thao quần chúng cũng được tổ chức thành công và thu hút số lượng lớn người tham gia với nhiều hoạt động như: Ngày hội văn hoá, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc; Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc lần thứ VI; giải Đẩy gậy trẻ quốc gia, giải Bóng chuyền Nông dân “Bông lúa vàng” lần thứ nhất tại khu vực II và giải Bóng đá trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Trong thể thao thành tích cao, ngành Thể dục Thể thao đã tổ chức thành công 10 giải thể thao trong chương trình Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc lần thứ VI cùng 59 giải thể thao quốc gia và 5 giải thể thao quốc tế. Tại các giải thi đấu thể thao quốc tế, đội tuyển Việt Nam đã giành 188 huy chương, bao gồm 78 huy chương vàng; 60 huy chương bạc và 50 huy chương đồng, trong đó có 4 huy chương vàng cấp thế giới và 2 huy chương vàng cấp châu Á

Tai nạn giao thông

Trong tháng 5/2010 trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1109 vụ tai nạn giao thông, làm chết 926 người và làm bị thương 772 người. So với cùng kỳ năm 2009, số vụ tai nạn giao thông tăng 11,5%, số người chết tăng 3,5% và số người bị thương tăng 25,5%. Tính chung 5 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 5699 vụ tai nạn giao thông, làm chết 4716 người và làm bị thương 4157 người. So với cùng kỳ năm 2009, số vụ tai nạn giao thông tăng 9,9%, số người chết giảm 2,6%, số người bị thương tăng 25,3%. Bình quân 1 ngày trong 5 tháng đầu năm, cả nước xảy ra 38 vụ tai nạn giao thông, làm chết 31 người và làm bị thương 28 người.

Thiệt hại do thiên tai gây ra

Thiên tai xảy ra trong 6 tháng đầu năm tại một số vùng trên cả nước đã làm 33 người chết và mất tích; gần 750 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi, hơn 27,6 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái; gần 1,7 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng. Các tỉnh bị ảnh hưởng nặng của thiên tai là Hà Giang, Sơn La, Yên Bái và Lào Cai, trong đó Hà Giang và Sơn La có 11 người chết và mất tích; Yên Bái và Lào Cai thiệt hại nặng về tài sản với hơn 160 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi, trên 8 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái và gần 1,4 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng. Tổng thiệt hại do thiên tai gây ra trong 6 tháng đầu năm ước tính 172 tỷ đồng. Công tác hỗ trợ khắc phục hậu quả sau thiên tai được triển khai khẩn trương, kịp thời tại các địa phương nhằm nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống dân cư. Theo báo cáo sơ bộ, tổng số tiền mặt cứu trợ các địa phương bị ảnh hưởng thiên tai trong 6 tháng đầu năm là hơn 7 tỷ đồng.

Bảo vệ môi trường

Tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra ở nhiều lĩnh vực và đang có chiều hướng tăng lên. Đặc biệt, vấn đề ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp, khu chế xuất hiện đang ở mức báo động. Theo Báo cáo môi trường quốc gia năm 2009, Việt Nam hiện có 173 khu công nghiệp đang hoạt động, thải ra hơn 1 triệu m3 nước thải mỗi ngày, trong đó 70% số nước thải này không được xử lý và xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận. Bên cạnh nước thải, khí thải và chất thải rắn cũng đang là vấn đề gây bức xúc trong dân. Cũng theo báo cáo trên, kết quả điều tra từ các khu công nghiệp thuộc 4 vùng kinh tế trọng điểm cho thấy ước tính bình quân một ngày có khoảng trên 90 tấn khí thải gây ô nhiễm không khí; lượng chất thải nguy hại chiếm khoảng 20% lượng chất thải rắn. Hiện chỉ có rất ít doanh nghiệp thực hiện việc phân loại và trung chuyển chất thải rắn theo quy hoạch được duyệt nên công tác quản lý chất thải rắn ở các khu công nghiệp gặp nhiều khó khăn. Trong 6 tháng đầu năm, cơ quan chức năng đã điều tra và phát hiện 3012 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, xử phạt hành chính trên 17 tỷ đồng và đề nghị khởi tố 72 vụ.

Khái quát lại, sau nửa chặng đường thực hiện các mục tiêu kế hoạch năm 2010, kinh tế-xã hội nước ta có nhiều chuyển biến tích cực và đạt mức tăng khá trên hầu hết các ngành, lĩnh vực. Các biện pháp bình ổn giá bước đầu phát huy tác dụng nên chỉ số giá tiêu dùng không cao. Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển. An sinh xã hội được quan tâm thường xuyên, đời sống dân cư có nhiều cải thiện. Những kết quả đạt được trên đây thêm một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng có tính quyết định của Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong lãnh đạo, giám sát, chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ mô.

Tuy nhiên, kinh tế nước ta còn phải đối mặt với nhiều thách thức, đó là: Sản xuất gặp nhiều khó khăn do nguồn điện cung cấp hạn chế. Thiên tai diễn biễn phức tạp. Đầu tư phát triển vẫn theo chiều rộng là chủ yếu, hiệu quả đầu tư chưa cao; sức cạnh tranh của hàng hoá thấp; các cân đối vĩ mô chưa thực sự vững chắc; đời sống dân cư tuy đã được cải thiện nhưng một số vùng, địa phương vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Do đó để thực hiện tốt mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010, góp phần hoàn thành các mục tiêu và nhiệm vụ của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010, các cấp, các ngành, các địa phương cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 15 tháng 01 năm 2010 và Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ, tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau đây:

Một là, nâng cao hiệu quả, chất lượng, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng. Doanh nghiệp cần phải chủ động và có giải pháp hữu hiệu để đối phó với những thách thức có thể xảy ra. Khẩn trương thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp, tiến tới xây dựng lực lượng doanh nghiệp có sức mạnh về mọi mặt nhằm nâng cao tiềm lực và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế.

Hai là, thực hiện đánh giá lại hiệu quả của các hoạt động đầu tư, đặc biệt đối với đầu tư công để có những điều chỉnh hợp lý. Nâng cao năng lực quản lý đầu tư cũng như hiệu lực công tác giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư nguồn vốn của nhà nước. Cơ cấu lại đầu tư của nhà nước theo hướng tăng thêm đầu tư cho y tế, đào tạo nghề, phát triển hệ thống an sinh xã hội và phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiêu thụ nông sản. Từng bước dành nguồn lực đầu tư vào các ngành công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng mạnh và bền vững, dựa trên hiệu suất và chất lượng.

Ba là, hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp tổng thể nhằm kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, đồng thời thực hiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng để ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng bền vững. Xây dựng chính sách tỷ giá bảo đảm vừa khuyến khích xuất khẩu, vừa hỗ trợ tăng trưởng bền vững.

Bốn là, thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 808/CT-TTg ngày 07 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về công tác phòng chống thiên tai, lụt, bão và tìm kiếm cứu nạn năm 2010. Hiện đại hoá cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng phục vụ công tác dự báo, cảnh báo thiên tai, đi đôi với tăng cường công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng cho quản lý thiên tai.

Năm là, rà soát lại quy trình triển khai thực hiện và tiến hành đánh giá tổng thể các chương trình, dự án liên quan đến giảm nghèo đã và đang triển khai thực hiện. Huy động mọi nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Lồng ghép và huy động tối đa các nguồn vốn, tập trung đẩy nhanh tiến độ xây dựng và đưa vào sử dụng các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống dân cư, nhất là ở vùng nông thôn. Đẩy mạnh và thực hiện đồng bộ các giải pháp tuyên truyền, vận động và thuyết phục người dân ý thức vươn lên thoát nghèo.


Nguồn: Tổng cục Thống kê